Cần hành lang pháp cho tín dụng xanh, ngân hàng xanh

Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050, xác định mục tiêu trong giai đoạn mới: tăng trưởng xanh góp phần thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng.

Phát triển kinh tế xanh tại Việt Nam

Theo đánh giá của Ban chỉ đạo quốc gia về tăng trưởng xanh năm 2023, Chiến lược tăng trưởng xanh quốc gia bước đầu đã triển khai thành công, từng bước đạt được các kết quả tích cực.

Cụ thể, các hoạt động kinh tế xanh tại Việt Nam đã giúp tạo ra 6,7 tỷ USD vào năm 2020 (chiếm khoảng 2% tổng GDP). Trong đó 83% đến từ lĩnh vực năng lượng (41%), các hoạt động nông - lâm nghiệp (28%) và hoạt động công nghiệp (14%); 17% còn lại đến từ các ngành giao thông và vận tải, xử lý chất thải và xây dựng.

Ước tính vào năm 2020, nền kinh tế xanh đem lại được hơn 400.000 việc làm, với hơn một nửa đến từ các hoạt động nông - lâm nghiệp xanh, công nghệ cao (33%); với ngành công nghiệp, chủ yếu trong hoạt động sản xuất các thiết bị, máy móc, phụ tùng phục vụ cho hoạt động sản xuất năng lượng tái tạo, năng lượng sạch (28%).

Theo Viện Nghiên cứu tăng trưởng xanh toàn cầu (Global Green Growth Insitute), Việt Nam đứng thứ 13/43 quốc gia châu Á về Chỉ số tăng trưởng xanh vào năm 2022. Tại Báo cáo đầu tư toàn cầu 2022 của UNCTAD, Việt Nam đứng thứ 2 trong số các quốc gia đang phát triển về tỷ lệ vốn đầu tư cho năng lượng tái tạo.

Giai đoạn 2015-2022, vốn đầu tư cho các nguồn năng lượng tái tạo của Việt Nam đạt 106,5 tỷ USD, tương đương 31% tổng nguồn vốn đầu tư, xếp thứ 2 trong các quốc gia đang phát triển trên thế giới, chỉ sau Brazil.

Ngoài ra, thị trường tài chính Việt Nam bước đầu phát triển gắn với mục tiêu tăng trưởng xanh. Nguồn vốn đầu tư FDI hay các quỹ khí hậu quốc tế có vai trò quan trọng thúc đẩy tài chính xanh, như NH Phát triển châu Á (ADB) với hơn 11,6 tỷ USD tổng giá trị cam kết cho những khoản vay, viện trợ và hỗ trợ kỹ thuật đối với những dự án, chương trình xanh và bền vững tại Việt Nam.

NH Thế giới (World Bank) đã cung cấp nguồn tài chính lên tới 18,7 tỷ USD, bao gồm viện trợ không hoàn lại, vốn tín dụng, và vốn vay ưu đãi cho Việt Nam thông qua 123 dự án xanh và bền vững kể từ năm 1993. Bên cạnh đó, nguồn lực từ các doanh nghiệp (DN) nhà nước và DN tư nhân cũng ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong đầu tư xanh, đặc biệt trong lĩnh vực năng lượng và môi trường.

Các chính sách hỗ trợ tín dụng xanh từ NH

Đối với nguồn vốn cho tín dụng xanh, dù đã nỗ lực huy động các nguồn vốn từ thị trường phi tín dụng, nhưng nhìn chung tín dụng xanh vẫn là công cụ huy động vốn chủ yếu cho các dự án xanh, với tốc độ tăng trưởng trung bình đến 25%/năm. Còn thị trường trái phiếu xanh khá mới mẻ, quy mô chỉ chiếm khoảng 1% thị trường trái phiếu.

Thực ra từ rất sớm, NHNN đã ban hành Chỉ thị 03/CT-NHNN ngày 24-3-2015 về thúc đẩy tăng trưởng tín dụng xanh và quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng. Ngày 3-11-2017, NHNN đã có Công văn 9050/NHNN-TD, hướng dẫn các tổ chức tín dụng (TCTD) báo cáo tình hình cấp tín dụng đối với 12 ngành/lĩnh vực xanh.

NHNN đã tham mưu Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 986/QĐ-TTg ngày 8-8-2018, phê duyệt “Chiến lược phát triển ngành NH Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”, trong đó đã đặt ra mục tiêu tăng hiệu quả phân bổ nguồn vốn tín dụng phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội; thúc đẩy phát triển “tín dụng xanh”, “NH xanh”, lồng ghép các nội dung về phát triển bền vững, biến đổi khí hậu và tăng trưởng xanh trong các chương trình, dự án vay vốn tín dụng.

Ngày 7-8-2018, NHNN đã ban hành Quyết định 1604/QĐ-NHNN, phê duyệt Đề án phát triển NH xanh tại Việt Nam, với mục tiêu tăng cường nhận thức và trách nhiệm xã hội của hệ thống NH đối với việc bảo vệ môi trường, chống biến đổi khí hậu, từng bước xanh hóa hoạt động NH, hướng dòng vốn tín dụng vào việc tài trợ dự án thân thiện với môi trường, thúc đẩy các ngành sản xuất, dịch vụ và tiêu dùng xanh, năng lượng sạch và năng lượng tái tạo; góp phần tích cực thúc đẩy tăng trưởng xanh và phát triển bền vững.

Ngày 26-7-2023, Thống đốc NHNN đã ban hành Quyết định 1408/QĐ-NHNN về Kế hoạch hành động của ngành NH thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, và Đề án về những nhiệm vụ, giải pháp triển khai kết quả Hội nghị lần thứ 26 các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu. Kế hoạch đã đặt ra 7 nhiệm vụ, giải pháp cụ thể của ngành NH nhằm góp phần thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh.

Bên cạnh đó, NHNN chỉ đạo các TCTD triển khai nhiều chương trình tín dụng, trong đó có các chính sách nhằm giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu, môi trường phù hợp với các ngành, lĩnh vực thường xuyên chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, môi trường, các chính sách tín dụng phát triển nông nghiệp nông thôn gắn với mục tiêu xanh và bền vững, chương trình cho vay khuyến khích phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch…

Trên cơ sở đó, nhận thức của hệ thống NHTM đã có sự chuyển biến rõ rệt trong thực hiện cấp tín dụng cho các ngành, lĩnh vực xanh, quản lý rủi ro về môi trường trong hoạt động cấp tín dụng. Nhiều TCTD đã chủ động hợp tác với các tổ chức tài chính quốc tế để nhận các hỗ trợ kỹ thuật và hỗ trợ tài chính để tài trợ cho các dự án mang lại lợi ích về môi trường.

Vẫn còn khó khăn vướng mắc

Đến 30-6, đã có 50 TCTD phát sinh dư nợ tín dụng xanh với dư nợ đạt 650.300 tỷ đồng, tăng 4,71% so với cuối năm 2023, chiếm 4,5% tổng dư nợ toàn nền kinh tế, tập trung chủ yếu vào các ngành năng lượng tái tạo, năng lượng sạch (chiếm gần 45%) và nông nghiệp xanh (gần 30%). Trước đó tại thời điểm 31-12-2023, dư nợ tín dụng xanh đạt 620.984 tỷ đồng, tăng 24% so với cuối năm 2022.

Tuy nhiên, kết quả tín dụng xanh vẫn còn hạn chế bởi các giải pháp của ngành NH còn gặp một số khó khăn. Cụ thể, Việt Nam chưa có quy định chung về Danh mục phân loại xanh phù hợp với phân loại ngành kinh tế và thông lệ quốc tế, để các TCTD có cơ sở đánh giá cụ thể đối với từng dự án trong quá trình thẩm định cho vay, tập trung, ưu tiên bố trí nguồn vốn hợp lý tài trợ cho các dự án thuộc Danh mục phân loại xanh.

Nhu cầu vốn thực hiện phát triển kinh tế xanh rất lớn, trong khi các nguồn vốn hỗ trợ DN, nhà đầu tư từ thị trường tài chính, thị trường tín chỉ carbon còn chưa phát triển hoặc chưa triển khai, gây áp lực vốn dài hạn cho hệ thống NH.

Bởi lẽ việc đầu tư vào các ngành/lĩnh vực xanh, nhất là lĩnh vực năng lượng tái tạo, tiết kiệm và hiệu quả năng lượng, công trình xanh thường đòi hỏi thời gian hoàn vốn dài, chi phí đầu tư lớn, trong khi nguồn vốn cho vay của các TCTD thường là vốn huy động ngắn hạn, nên các TCTD khó khăn trong việc cân đối vốn và đáp ứng yêu cầu về đảm bảo an toàn, đảm bảo tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn theo quy định.

Hiện nay, tỷ trọng tín dụng xanh đang thống kê là dựa trên cơ sở 12 ngành xanh do NHNN hướng dẫn từ năm 2017, chưa đảm bảo xác định, thống kê đầy đủ nguồn lực tín dụng xanh của ngành NH cho nền kinh tế.

Không chỉ vậy, việc thúc đẩy kinh tế xanh, tín dụng xanh, tăng cường quản lý rủi ro môi trường và xã hội sẽ khiến các TCTD phát sinh chi phí phải đầu tư xây dựng hệ thống quản trị phù hợp mục tiêu tăng trưởng xanh, năng lực chuyên môn cán bộ NH về tài trợ dự án xanh, tuần hoàn, phát triển bền vững cần cải thiện. Hạn chế trong ý thức bảo vệ môi trường của người dân, DN dẫn đến bị xử phạt vi phạm pháp luật về môi trường, ảnh hưởng hoặc thậm chí làm gián đoạn tiến độ triển khai dự án, tiềm ẩn rủi ro thu hồi nợ cho các TCTD.

Những kiến nghị

Trong thời gian tới, ngành NH sẽ tiếp tục thực hiện các giải pháp để triển khai Kế hoạch hành động của ngành NH, thực hiện chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030. Tuy nhiên, để các cơ chế, chính sách của ngành NH thực sự phát huy hiệu quả nhằm mở rộng và thúc đẩy nguồn vốn tín dụng xanh, NHNN đề nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành rà soát, tham mưu hoàn thiện hành lang pháp lý để có hướng dẫn về Danh mục xanh và tiêu chí xác định dự án xanh, phù hợp với phân ngành kinh tế của Việt Nam làm cơ sở cho các TCTD có căn cứ thẩm định, đánh giá và giám sát khi thực hiện cấp tín dụng xanh.

Mặt khác, cần xây dựng lộ trình thực hiện các cơ chế chính sách hỗ trợ các ngành xanh (thuế, phí, vốn, kỹ thuật, thị trường, đến quy hoạch, chiến lược phát triển…) của từng ngành/lĩnh vực một cách đồng bộ, nhằm thu hút và phát huy hiệu quả của nguồn vốn tín dụng xanh. Nghiên cứu, xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển thị trường vốn, thị trường trái phiếu xanh, tạo kênh huy động vốn cho các chủ đầu tư có thêm nguồn lực triển khai các dự án xanh.

Đối với các TCTD xác định hoạt động tín dụng xanh, NH xanh là xu thế, NHNN yêu cầu hướng đến phát triển bền vững, từ đó lồng ghép phát triển xanh trong định hướng, xây dựng chiến lược kế hoạch kinh doanh của TCTD; đào tạo nguồn nhân lực có chuyên môn về môi trường, nghiên cứu phát triển đa dạng các sản phẩm, dịch vụ NH để đáp ứng các yêu cầu cấp tín dụng xanh, huy động tài chính xanh.

Và bên cạnh nguồn vốn NH, cần đa dạng hóa các nguồn vốn tài trợ cho các dự án xanh, đặc biệt phát hành trái phiếu xanh thông qua thị trường vốn trong nước.

NHNN cũng tích cực tham gia các hội thảo, diễn đàn trong nước và quốc tế có nội dung liên quan đến các vấn đề tín dụng xanh, NH xanh để học hỏi, chia sẻ kinh nghiệm trong quá trình xây dựng chính sách, chỉ đạo triển khai thực hiện.

Vụ Tín dụng các ngành kinh tế - NHNN

Nguồn SGĐT: https://dttc.sggp.org.vn/can-hanh-lang-phap-cho-tin-dung-xanh-ngan-hang-xanh-post117788.html