Nghiên cứu hệ thống pháp luật giúp khơi thông, huy động nguồn lực Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung
Tiến sĩ Nguyễn Thanh Nga, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách Tài chính (Bộ Tài chính) cho rằng, cần rà soát, nghiên cứu hệ thống văn bản pháp luật về tài chính có tính đến yếu tố đặc thù, qua đó khơi thông, huy động nguồn lực phục vụ Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung.
Chiều 17-3, Diễn đàn Kinh tế - Tài chính 2023 với chủ đề “Huy động các nguồn lực phát triển nhanh, bền vững Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung” đã diễn ra tại TP Đà Nẵng.
Phát biểu tại diễn đàn, Tiến sĩ Nguyễn Thanh Nga, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách Tài chính (Bộ Tài chính) cho rằng, cần rà soát, nghiên cứu hệ thống văn bản pháp luật về tài chính có tính đến yếu tố đặc thù, qua đó khơi thông, huy động nguồn lực phục vụ Vùng kinh tế trọng điểm (KTTĐ) miền Trung.
Theo đó, Vùng KTTĐ miền Trung đã duy trì được mức tăng trưởng kinh tế khá cao trong thời gian dài, khoảng 6%/năm giai đoạn 2016 - 2022.
Tuy nhiên, để phát triển tương xứng với quy mô và lợi thế sẵn có, cần thiết phải có thêm các cơ chế, chính sách hỗ trợ nhằm huy động nguồn lực đưa kinh tế - xã hội của vùng lên một vị thế mới.
Để huy động nguồn lực cho phát triển Vùng KTTĐ miền Trung, ngoài hoàn thành hệ thống các văn bản pháp luật về tài chính có tính đến yếu tố đặc thù của vùng, theo Tiến sĩ Nguyễn Thanh Nga phải hoàn thiện chính sách thu gắn với cơ cấu lại thu ngân sách Nhà nước (NSNN) theo hướng bao quát toàn bộ các nguồn thu, nhất là các nguồn thu mới, phù hợp với thông lệ quốc tế, tăng tỷ trọng thu nội địa, khai thác tốt thu thuế từ tài nguyên đi cùng với công tác bảo vệ môi trường.
Ngoài ra, cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các chính sách ưu đãi về thuế, phí theo hướng thu hẹp lĩnh vực ưu đãi nhưng tập trung và có mức ưu đãi cho doanh nghiệp, dự án đầu tư phát triển ngành công nghiệp, dịch vụ mũi nhọn của Vùng; tiếp tục rà soát lại các ưu đãi về thuế, phí, tín dụng để khuyến khích đầu tư phát triển, đồng thời thu hút các dự án đầu tư ở các lĩnh vực là thế mạnh của vùng (công nghiệp, công nghiệp phụ trợ, dịch vụ...).
Để phân bổ nguồn lực tài chính phát triển Vùng KTTĐ miền Trung, Tiến sĩ Nguyễn Thanh Nga đề xuất cần tiếp tục nghiên cứu ban hành định mức phân bổ ngân sách (bao gồm định mức chi đầu tư và chi thường xuyên) đảm bảo nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội cho các tỉnh, thành phố thuộc vùng.
Tập trung nguồn vốn ngân sách nhà nước đầu tư các công trình trọng điểm có sức lan tỏa lớn và giải quyết các vấn đề phát triển vùng và liên vùng; cần đẩy mạnh hoạt động xã hội hóa các lĩnh vực (giáo dục, đào tạo, y tế...) ở các địa bàn có lợi thế, dành phần kinh phí ngân sách nhà nước hỗ trợ cho các vùng nghèo, khó khăn; khuyến khích việc huy động các nguồn lực trong xã hội cho đầu tư phát triển sự nghiệp công; đồng thời tăng cường kiểm tra, kiểm soát việc sử dụng vốn của các địa phương, đảm bảo các chế độ, chính sách hỗ trợ của nhà nước đến với người dân đầy đủ, kịp thời, sử dụng kinh phí đúng mục đích, tiết kiệm hiệu quả.
Cần đa dạng hóa các hình thức huy động và sử dụng hiệu quả nguồn lực, nhất là các nguồn lực đầu tư ngoài ngân sách nhà nước. Nâng cao hiệu quả đầu tư công, nhất là trong lập và quản lý thực hiện kế hoạch đầu tư công trung hạn, bảo đảm yêu cầu phát triển, hạn chế thấp nhất việc điều chỉnh, bổ sung.
Tăng cường các biện pháp quản lý các nguồn thu phát sinh, chống thất thu ngân sách; kịp thời giải quyết các vướng mắc để thúc đẩy phát triển kinh tế, tăng nguồn thu ngân sách. Tiếp tục cơ cấu chi ngân sách theo hướng tăng chi đầu tư phát triển, ưu tiên nguồn lực cho các nhiệm vụ trọng tâm, công trình trọng điểm, giảm chi thường xuyên.
Ngoài ra, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển khoa học, công nghệ, thúc đẩy đổi mới sáng tạo; tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, đẩy mạnh xúc tiến đầu tư, thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo.
Sau gần 20 năm hình thành và phát triển, Vùng KTTĐ miền Trung đã đạt được một số thành tựu phát triển nhất định. Tuy vậy, Vùng chưa có nhiều nổi trội hơn so với các tiểu vùng khác, đóng góp vào quy mô chung của cả nước vẫn còn thấp, năng lực nội sinh còn yếu nên chưa thể hiện rõ vai trò là vùng kinh tế động lực. Trong đó, đóng góp của “đầu tàu” là TP Đà Nẵng với Vùng còn dưới mức kỳ vọng, thấp hơn hai tỉnh Quảng Nam và tỉnh Bình Định. Trong 5 tỉnh, chỉ có 2 tỉnh là tỉnh Quảng Ngãi, Quảng Nam có dự án động lực, thúc đẩy sự phát triển vùng.