Có nên sử dụng ngoại ngữ trong hầu đồng?

Những ngày qua, mạng xã hội xuất hiện một clip hầu đồng gây chú ý; trong đó, thanh đồng sử dụng ngoại ngữ để 'sang tai, phán truyền'. Trước hiện tượng này, có ý kiến cho rằng, đây là hành động thiếu tôn trọng tín ngưỡng và làm sai lệch nghi lễ truyền thống. Tuy nhiên, có không ít thanh đồng đưa ra lập luận, sự linh hoạt và thích nghi với hoàn cảnh mới, có thể giúp thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu phát triển và bảo tồn trong bối cảnh hiện đại, điều quan trọng là vẫn giữ được tinh thần và bản chất của nghi lễ cũng như sự tôn trọng đối với truyền thống văn hóa.

Thanh đồng sử dụng ngoại ngữ để "sang tai, phán truyền" (hình ảnh cắt từ clip)

Thanh đồng sử dụng ngoại ngữ để "sang tai, phán truyền" (hình ảnh cắt từ clip)

Ngôn ngữ có vai trò quan trọng trong việc thể hiện và duy trì bản sắc văn hóa, truyền tải kiến thức và tư tưởng, đồng thời tạo nên sự gắn kết cộng đồng. Đặc biệt trong các nghi lễ truyền thống như hầu đồng, ngôn ngữ còn mang tính linh thiêng, giữ gìn và truyền lại những giá trị văn hóa, tín ngưỡng qua nhiều thế hệ.

Việc sử dụng ngoại ngữ trong nghi lễ hầu đồng được xem là sự cách tân, nhưng có thể dẫn đến nhiều tranh cãi, với một số ý kiến khác nhau từ cộng đồng người tham gia nói chung và những cá nhân tôn sùng tín ngưỡng thờ Mẫu nói riêng.

Quan điểm không đồng tình

Tính truyền thống và bản sắc văn hóa: Hầu đồng là một nghi lễ lâu đời, gắn liền với văn hóa và tín ngưỡng của người Việt. Sử dụng tiếng Việt trong nghi lễ giúp duy trì và tôn vinh bản sắc văn hóa, đồng thời giữ gìn các yếu tố truyền thống của hầu đồng như hát chầu văn và lời cầu nguyện.

Sự linh thiêng và tôn nghiêm: Ngôn ngữ trong nghi lễ hầu đồng không chỉ là phương tiện giao tiếp mà còn mang tính thiêng liêng. Sử dụng ngôn ngữ khác có thể làm giảm đi tính tôn nghiêm và linh thiêng của nghi lễ, gây ra cảm giác thiếu tôn trọng đối với các vị thánh, thần và những người tham gia.
Tính toàn vẹn của nghi lễ: Việc sử dụng ngoại ngữ có thể làm thay đổi ý nghĩa và cách thức thực hiện của nghi lễ, dẫn đến sự biến dạng, và mất đi tính toàn vẹn của hầu đồng. Điều này có thể dẫn đến hiểu lầm và sai lệch về bản chất của tín ngưỡng thờ Mẫu.

Trao đổi với phóng viên, NNƯT Vũ Văn Quyết - Chi Hội trưởng Chi hội Câu lạc bộ đạo Mẫu Phúc Thủy Linh Từ - thủ nhang Phúc Thủy Linh Từ (Hưng Yên) cho biết: “Tôi thấy, việc sử dụng ngoại ngữ là không phù hợp, vì hầu đồng là một nghi lễ mang đậm bản sắc văn hóa Việt Nam. Do đó, ngôn ngữ được sử dụng trong nghi lễ nên là tiếng Việt, để duy trì tính truyền thống và sự linh thiêng. Tiếng Việt cũng là ngôn ngữ gốc, phổ thông của các bài hát chầu văn, hay những lời sang tai của thanh đồng trong buổi lễ. Nếu buổi hầu đồng có người nước ngoài tham dự, thấy cần thiết thì nên có phiên dịch.”

NNƯT Vũ Văn Quyết - Chi Hội trưởng Chi hội Câu lạc bộ đạo Mẫu Phúc Thủy Linh Từ - thủ nhang Phúc Thủy Linh Từ (Hưng Yên)

NNƯT Vũ Văn Quyết - Chi Hội trưởng Chi hội Câu lạc bộ đạo Mẫu Phúc Thủy Linh Từ - thủ nhang Phúc Thủy Linh Từ (Hưng Yên)

Quan điểm đồng tình đưa ra

Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện đại hóa và giao lưu văn hóa, một số thanh đồng cho rằng, có thể sử dụng ngoại ngữ để tiếp cận và tương tác với cộng đồng nước ngoài hoặc Việt kiều, nhằm quảng bá và bảo tồn tín ngưỡng thờ Mẫu trên phạm vi rộng hơn. Điều này có thể giúp tín ngưỡng thờ Mẫu trở nên dễ hiểu và dễ tiếp cận hơn đối với những người không hiểu tiếng Việt.

Thích nghi và phát triển: Một số thanh đồng cho rằng, tín ngưỡng và nghi lễ hầu đồng luôn phát triển theo thời gian và có thể thích nghi với các bối cảnh xã hội mới. Việc sử dụng ngoại ngữ có thể là cách giúp tín ngưỡng thờ Mẫu dễ tiếp cận hơn với người nước ngoài hoặc Việt kiều.

Quảng bá và bảo tồn: Sử dụng ngoại ngữ có thể giúp quảng bá tín ngưỡng thờ Mẫu ra thế giới, tạo ra sự giao lưu và học hỏi văn hóa. Điều này có thể giúp duy trì, bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa tín ngưỡng một cách sâu rộng, trong bối cảnh toàn cầu hóa.

Giữ được tinh thần và ý nghĩa cốt lõi: Nếu việc sử dụng ngoại ngữ được thực hiện một cách tôn trọng và đúng mực, giữ được tinh thần và ý nghĩa cốt lõi của nghi lễ, thì điều này có thể được xem là một sự đổi mới tích cực.

Trước quan điểm trên, tiến sĩ, NNDG Nguyễn Văn Quân, Phó Chủ tịch Hội Nghệ nhân và Thương hiệu Việt Nam, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Phát triển đạo Mẫu Việt Nam cho hay: “Việt Nam ta đã mang văn hóa hầu đồng sang các nước bạn để giao lưu, chia sẻ, quảng bá... Do đó, việc sử dụng ngoại ngữ trong hầu đồng có thể được xem là sự linh hoạt và thích nghi với hoàn cảnh mới, nhưng điều quan trọng là phải giữ được tinh thần và bản chất của nghi lễ cũng như sự tôn trọng đối với truyền thống văn hóa. Tuy nhiên, chỉ nên sử dụng trong những hoàn cảnh đặc biệt, có phái đoàn nước ngoài tham dự. Nếu lạm dụng, sẽ trở nên kệch cỡm.”

“Ngoài tiếng Việt, thanh đồng có thể sử dụng tiếng Nùng, Tày, Dao... ứng với các vị tiên Thánh ở các miền khác nhau; nhằm lan tỏa những giá trị văn hóa hầu đồng một cách sâu rộng trong cộng đồng” - tiến sĩ, NNDG Nguyễn Văn Quân chia sẻ thêm.

Tiến sĩ, NNDG Nguyễn Văn Quân, Phó Chủ tịch Hội Nghệ nhân và Thương hiệu Việt Nam, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Phát triển đạo Mẫu Việt Nam

Tiến sĩ, NNDG Nguyễn Văn Quân, Phó Chủ tịch Hội Nghệ nhân và Thương hiệu Việt Nam, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Phát triển đạo Mẫu Việt Nam

Như vậy, có thể đưa ra kết luận, việc sử dụng ngoại ngữ trong hầu đồng cần được cân nhắc kỹ lưỡng. Mặc dù có thể giúp quảng bá và bảo tồn tín ngưỡng, nhưng điều quan trọng là phải giữ được tinh thần, bản chất của nghi lễ, cũng như sự tôn trọng đối với truyền thống văn hóa. Chỉ nên sử dụng ngoại ngữ trong những hoàn cảnh đặc biệt và không nên lạm dụng để tránh làm mất đi tính linh thiêng và toàn vẹn của nghi lễ hầu đồng.

Bình An

Nguồn VHPT: https://vanhoavaphattrien.vn/co-nen-su-dung-ngoai-ngu-trong-hau-dong-a25362.html