BÁO CÁO ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI VỀ THẨM TRA SƠ BỘ DỰ ÁN LUẬT THỎA THUẬN QUỐC TẾ

Sáng 22/4, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Tòng Thị Phóng, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nghe Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Nguyễn Văn Giàu báo cáo thẩm tra sơ bộ Dự án Luật Thỏa thuận quốc tế.

Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Nguyễn Văn Giàu trình bày một số nội dung thẩm tra sơ bộ

Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Nguyễn Văn Giàu trình bày một số nội dung thẩm tra sơ bộ

Trình bày Báo cáo thẩm tra sơ bộ tại Phiên họp thứ 44, Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Nguyễn Văn Giàu cho biết, Pháp lệnh ký kết và thực hiện thỏa thuận quốc tế được Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XI thông qua ngày 20/4/2007, có hiệu lực từ ngày 01/7/2007 đã tạo cơ sở pháp lý cho việc ký kết và thực hiện thỏa thuận quốc tế, góp phần thúc đẩy tiến trình hội nhập của đất nước và triển khai thực hiện có hiệu quả đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta thời gian qua. Tuy nhiên việc ban hành Luật Thỏa thuận quốc tế nhằm đảm bảo yêu cầu thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng về hội nhập quốc tế, nhất là sau khi ban hành Hiến pháp năm 2013, Luật Điều ước quốc tế năm 2016 và đáp ứng đòi hỏi từ thực tiễn nhu cầu ký kết, thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Các ý kiến tham gia đều nhất trí về sự cần thiết ban hành Luật Thỏa thuận quốc tế theo Tờ trình của Chính phủ.

Về hồ sơ dự án Luật, các ý kiến thẩm tra đều cho rằng hồ sơ dự án Luật Thỏa thuận quốc tế đã được Cơ quan chủ trì soạn thảo chuẩn bị đầy đủ theo quy định tại khoản 1 Điều 64 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng, việc gửi hồ sơ dự án để thẩm tra còn chậm theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật .

Về tính hợp hiến, hợp pháp và tính tương thích với các điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam là thành viên, ý kiến thẩm tra cho rằng Dự án Luật phù hợp với Hiến pháp năm 2013 và tương thích với các điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam là thành viên. Tuy nhiên, một sô ý kiến cho rằng Dự án Luật còn có mâu thuẫn, thiếu tính thống nhất trong một số quy định của Dự án Luật. Ngoài ra, có ý kiến cho rằng đây là luật quy định về trình tự, thủ tục ký kết, không phải luật quy định về tổ chức bộ máy nhà nước, đề nghị cân nhắc quy định về chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền trong dự thảo Luật này.

Toàn cảnh Phiên họp

Toàn cảnh Phiên họp

Đối với một số nội dung cụ thể của Dự án Luật, ý kiến thẩm tra sơ bộ như sau:

Về khái niệm thỏa thuận quốc tế, đa số ý kiến thẩm tra cho rằng, dự thảo Luật đưa ra khái niệm thỏa thuận quốc tế để phân biệt với điều ước quốc tế nhưng vẫn chưa rõ nội hàm, nội dung cốt lõi của thỏa thuận quốc tế, có sự chồng lấn với Luật Điều ước quốc tế. Do đó, Thường trực Ủy ban Đối ngoại cho rằng khái niệm thỏa thuận quốc tế cần được xác định đúng bản chất để làm cơ sở cho việc xác định phạm vi điều chỉnh của Luật và đảm bảo tính thống nhất với các quy định của pháp luật hiện hành.

Về bên ký kết Việt Nam, các ý kiến thẩm tra đều nhất trí chủ trương mở rộng chủ thể ký kết thỏa thuận quốc tế về phía Việt Nam. Tuy nhiên, nhiều ý kiến đề nghị cân nhắc một số nội dung cụ thể sau: Dự án Luật quy định chủ thể ký kết chỉ là cơ quan của Quốc hội, chưa bao quát hết các chủ thể có thẩm quyền ký kết về phía Quốc hội. Nhiều ý kiến đề nghị cân nhắc việc mở rộng chủ thể ký kết thỏa thuận quốc tế đến Ủy ban nhân dân cấp huyện và Ủy ban nhân dân cấp xã do hợp tác quốc tế luôn tiềm ẩn những vấn đề nhạy cảm về chính trị, đối ngoại, quốc phòng, an ninh đòi hỏi cơ quan, tổ chức tham mưu và chủ thể ký kết phải có năng lực nhất định, do đó không phải cơ quan, tổ chức nào cũng được quyền ký kết thỏa thuận quốc tế. Nhiều ý kiến cho rằng không nên phân cấp cho nhiều chủ thể ký kết thỏa thuận quốc tế vì dễ tạo nên sự thiếu thống nhất giữa các địa phương, đặc biệt giữa các địa phương có chung đường biên giới với cùng một quốc gia như ở Việt Nam. Nhiều ý kiến đề nghị cần cân nhắc quy định về cơ quan trung ương và cơ quan cấp tỉnh của các tổ chức chính trị- xã hội, chính trị-xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp; do những khái niệm này chưa bao quát hết các loại hình tổ chức ngoài nhà nước (như Quỹ xã hội, quỹ từ thiện; tổ chức phi chính phủ, các tổ chức khoa học - công nghệ ngoài công lập ...), các tổ chức nêu trên có hoặc không có cấp tỉnh, hoặc có cấp tỉnh song không nhất thiết là “cơ quan cấp tỉnh” của các tổ chức đó. Có ý kiến cho rằng thực tế các đơn vị sự nghiệp công lập (nhất là các cơ sở nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, giáo dục, y tế …) đã ký kết nhiều thỏa thuận quốc tế thời gian qua và trên thực tế vẫn có nhu cầu ký kết. Tuy nhiên, dự thảo Luật quy định bên ký kết Việt Nam không bao gồm chủ thể này thì quy định nào của pháp luật điều chỉnh. Ngoài ra có ý kiến khác đề nghị không quy định cơ quan thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc cấp tỉnh ký thỏa thuận quốc tế vì chưa đúng tầm quan trọng của thỏa thuận quốc tế trong quan hệ hợp tác quốc tế ở nước ta.

Về bên ký kết nước ngoài, một số ý kiến thẩm tra cho rằng quy định “bên ký kết nước ngoài” gồm cá nhân nước ngoài là chưa tương xứng với quy định với “bên ký kết Việt Nam ” và chưa có chủ thể quan trọng là Nghị viện/Quốc hội và các cơ quan thuộc Nghị viện/Quốc hội nước ngoài. Cần lượng hóa danh mục các chủ thể nước ngoài để chủ động kiểm soát phù hợp với thông lệ quốc tế. Ngoài ra, để bảo đảm tính khái quát, đề nghị làm rõ chủ thể ký kết nước ngoài là cơ quan được hiểu như thế nào, vì pháp luật nước ngoài thường không sử dụng khái niệm chung này như ở Việt Nam. Có ý kiến cho rằng cần xác định rõ bên ký kết nước ngoài phải có tư cách ký kết thỏa thuận quốc tế theo pháp luật để hạn chế việc tùy tiện ký các thỏa thuận quốc tế mà không xác định được rõ địa vị pháp lý của bên nước ngoài.

Về nguyên tắc ký kết và thực hiện thỏa thuận quốc tế, một số ý kiến thẩm tra cho rằng các quy định không được ký kết thỏa thuận quốc tế tại khoản 6 Điều 3 dự thảo Luật có một số nội dung trùng lắp, mâu thuẫn với các hành vi bị nghiêm cấm tại Điều 8 dự thảo Luật. Có những hành vi bị nghiêm cấm theo quy định tại khoản 2 Điều 8 là “Cấm ký kết thỏa thuận quốc tế làm thay đổi, phát sinh, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của nước CHXHCN Việt Nam theo pháp luật quốc tế”, nhưng lại không bị coi là hành vi không được ký thỏa thuận quốc tế. Mặt khác, việc quy định cả điều khoản “không được” và điều khoản “cấm” trong dự thảo là không rõ ràng về mặt pháp lý, gây nên sự trùng lắp, khó áp dụng pháp luật. Do đó, các ý kiến đề nghị thể hiện nội dung này tại một điều luật.

Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Nguyễn Văn Giàu nêu rõ, Thường trực Ủy ban Đối ngoại nhận thấy hồ sơ dự án Luật đã được Chính phủ chuẩn bị công phu, nghiêm túc, đầy đủ theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, đủ điều kiện trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ 9. Do đó, Ủy ban trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, cho ý kiến.

Sau khi nghe Tờ trình và Báo cáo thẩm tra sơ bộ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội tiến hành thảo luận về Dự án Luật Thỏa thuận quốc tế./.

Hồ Hương- Trọng Quỳnh

Nguồn Quốc Hội: http://quochoi.vn/tintuc/pages/tin-hoat-dong-cua-quoc-hoi.aspx?itemid=44913