Tầm quan trọng của tự chủ đại học với chiến lược phát triển quốc gia

Những cơ chế thực thi chính sách thiếu đồng bộ, làm hạn chế việc thực hiện một cách hiệu quả chủ trương và chính sách phát triển tự chủ đại học.

TỰ CHỦ ĐẠI HỌC LÀ GÌ?

Tự chủ đại học (University Autonomy) là một khái niệm chưa được thống nhất vào một định nghĩa chung cho các quốc gia. Ở nơi này hay nơi khác, về thuật ngữ này, người ta vẫn hiểu khác nhau. Có một số thuật ngữ thường được dùng để thay thế như:

Academic self-governauce (Tự quản lý học thuật)
Policy-making Authority (Thẩm quyền xây dựng chính sách)
Self-Control (Tự kiểm soát)

Tuy nhiên, những thuật ngữ đó chỉ nói lên một phần nào chức năng tự chủ mà trường đại học đảm nhiệm. Có thể hiểu tự chủ đại học là:

Tự chủ đại học là quyền của các cơ sở giáo dục đại học trong việc tự xác định mục tiêu, lựa chọn phương thức thực hiện các mục tiêu đó, tự quyết định và có trách nhiệm giải trình về các hoạt động liên quan đến chuyên môn, tổ chức, tài chính, nhân sự và tài sản của mình.

Nhưng tại sao trường đại học lại cần có quyền như quan niệm trên đây? Từ xa xưa, khi trường đại học được thành lập, người sáng lập ra nó không cho nó cái quyền này. Nhà nước là chủ thể lập nên trường đại học đã trao quyền này trong một điều kiện cụ thể nhất định mà trước đây cả trăm năm không có.

Các trường đại học ở châu Âu lâu đời còn tồn tại đến ngày nay.

Các trường đại học ở châu Âu lâu đời còn tồn tại đến ngày nay.

Ở Châu Âu, các trường đại học được thành lập bắt đầu từ Đại học Bologna năm 1088 và Đại học Paris (khoảng 1150-1170) tại Pháp. Trường đại học thời Trung cổ đều là trường của Giáo hội Công giáo La Mã. Ngay từ đầu, các trường đại học đều hoạt động nhằm đào tạo các chuyên gia, các nhà nghiên cứu khoa học. Những sự kiện xã hội đánh dấu sự tiến bộ và văn minh xã hội như chủ nghĩa nhân văn Phục Hưng (giữa thế kỷ XIV), cải cách Đạo Tin Lành (1517), Thời đại khai sáng (Thế kỷ XVIII) đã có tác động làm thay đổi chương trình giảng dạy trong trường đại học.

Trường Đại học Bách Khoa École Politechnique của Pháp (1794), trường Humboldtian của Đức đã tập trung vào những vấn đề khoa học và nghiên cứu, mở ra ý tưởng tự do, nhưng không mở cửa cho công chúng.

Tại Ấn Độ, Trường Nalanda là trường đại học Phật giáo cổ xưa, có chế độ nội trú, hoạt động từ thế kỷ thứ V đến năm 1197. Đến năm 1918, Ấn Độ mở trường Đại học Osmania. Đó là trường công lập ở Hyderabad - Osmania được coi là trường đại học lâu đời của Ấn Độ.

Ở Trung Quốc, Trường Đại học Hồ Nam được xây dựng từ năm 976 sau công nguyên, khởi đầu là Học viện Nhạc Lộc, đến năm 1903 thì được cấu trúc lại thành Trường Trung học Hồ Nam, mãi đến năm 1926 mới chính thức là trường đại học.

Tất cả các mô hình trường đại học trên đây đều không có quyền tự chủ.

Sau khi Đảng Cộng sản Trung Quốc nắm quyền lãnh đạo đất nước, chế độ tự chủ đại học chỉ bắt đầu từ năm 2000. Vấn đề quản trị đại học ở quốc gia này được chia thành 3 giai đoạn:

Ở Thái Lan, nhà nước hoạch định kế hoạch phát triển giáo dục đại học dài hạn 1990-2004, nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của đất nước. Cấu trúc quản trị trường đại học tương tự như đối với doanh nghiệp. Hội đồng Đại học giữ vai trò then chốt trong quản trị hệ thống đại học.

Nhiều nhà khoa học đã đưa ra những định nghĩa về tự chủ đại học. Sau đây là vài thí dụ:

Định nghĩa của Berdahl, Graham, Piper (1971)

Tự chủ đại học là quyền lực của nhà trường được tự điều khiển việc vận hành của mình mà không bị kiểm soát từ bên ngoài.

Định nghĩa của Anderson và Johnson (1998)

Tự chủ đại học là sự tự do của một cơ sở giáo dục đại học trong việc tiến hành các công việc của nó mà không có sự chỉ đạo hoặc tác động từ bất cứ cấp chính quyền nào.

Định nghĩa của Phạm Phụ (2016)

Tự chủ đại học phản ánh mối quan hệ giữa cơ sở giáo dục đại học với Chính phủ, mức độ can thiệp của Chính phủ vào những vấn đề khác nhau của cơ sở giáo dục đại học.

Theo Ngân hàng thế giới (World Bank) - 2008, trong quản trị đại học, từ trước tới nay có 4 mô hình đại học sau đây:

Mô hình nhà nước kiểm soát hoàn toàn (State Control)
Mô hình bán tự chủ (Semi - autonomous)
Mô hình bán độc lập (Semi - independent)
Mô hình độc lập (Independent)

Khái quát những ý kiến khác nhau về tự chủ đại học, ta có thể hiểu rằng, vấn đề cốt lõi nhất trong chính sách phát triển đại học là tính độc lập của hệ thống, thể hiện mối quan hệ mới giữa cơ sở giáo dục đại học với nhà nước. Tự chủ là trao quyền để trường đại học được tự do trong hoạt động thông qua những chính sách quản trị cởi mở để phát huy tận lực năng lực sáng tạo của trường trong một thế giới hiện đại, biến đổi và phát triển nhanh chóng nhờ vào những cuộc cách mạng công nghệ nối tiếp nhau không ngừng.

Trong xã hội hiện đại, phát triển mạnh mẽ và mau chóng, sứ mệnh của trường đại học phải gánh vác là:

- Trường đại học phải trở thành những "pháo đài" bảo vệ đất nước, bảo vệ đường lối chính trị của quốc gia, bảo vệ quyền lợi của dân tộc.

- Nâng cao chất lượng đào tạo con người, tạo ra những lao động tri thức và nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của các chiến lược phát triển quốc gia trong kỷ nguyên mới.

- Bảo đảm công bằng xã hội cho mọi công dân về quyền tiếp cận và thụ hưởng kiến thức do trường đại học chia sẻ, cung ứng; không có bất cứ rào cản đối với quyền này của công dân.

- Kết nối trường đại học trong nước với trường đại học có uy tín của nước ngoài, gắn kết hữu cơ với nhiều trường đại học, viện nghiên cứu lớn, các doanh nghiệp lớn, tạo thành những tập đoàn đại học, được vận hành và quản trị như một tập đoàn kinh tế - giáo dục.

NHỮNG YẾU TỐ KINH TẾ XÃ HỘI THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TỰ CHỦ GIÁO DỤC

Áp lực từ sự phát triển kinh tế tri thức

Khi kinh tế tri thức phát triển, vốn tri thức sẽ có vai trò lớn so với vốn lao động và vốn tài chính. Tri thức sẽ mang lại những giá trị gia tăng cao. Từ đây, xã hội yêu cầu phải có nhân lực đạt trình độ chuyên môn cao - nhân lực được tri thức hóa - để thích ứng nhanh với sự thay đổi với gia tốc lớn của sản xuất, kinh doanh và dịch vụ.

Các trường đại học sẽ phải linh hoạt hơn trong việc phát triển học thuật, tạo nên những chương trình đào tạo đa dạng, đa lĩnh vực, mở ra các ngành học về trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, phân tích dữ liệu, an ninh mạng... đáp ứng nhu cầu nhân lực của các công ty công nghệ.

Cạnh tranh toàn cầu cũng là một áp lực lớn đối với các trường đại học. Chỉ khi có quyền tự chủ, trường đại học mới có thể đầu tư lớn vào cơ sở vật chất hiện đại để thu hút sinh viên và các giáo sư nổi tiếng từ bên ngoài, mới đủ năng lực hợp tác với các trường đại học tầm cỡ toàn cầu của các quốc gia. Cũng trên nền tảng này, trường đại học mới có vị thế bình đẳng trong trao đổi sinh viên và nghiên cứu khoa học với các trường đại học lớn trên thế giới.

Những thay đổi lớn trong quan điểm xã hội về giáo dục

Xã hội ngày càng nhận thức đầy đủ và sâu sắc hơn vai trò của trường đại học như một điều kiện tiên quyết để nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế trong phạm vi toàn cầu. Mặt khác, xã hội cũng nhận ra rằng, đã tới lúc, trong mọi lĩnh vực hoạt động của nền kinh tế quốc dân, giáo dục đại học mới là yếu tố động lực.

Trường đại học là nơi cung ứng các dịch vụ tri thức cho việc học tập suốt đời trong nhân dân. Trường đại học vì thế phải thực hiện những chức năng xã hội của mình giống như các doanh nghiệp xã hội. Hơn nữa, chính trường đại học mới là vườn ươm tài năng cho xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng và tạo điều kiện để mở ra các hướng phát triển tài năng trong xã hội.

Từ những vấn đề trên, xã hội yêu cầu trường đại học phải giải trình về chất lượng đào tạo và hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực.

Xã hội có xu hướng tham gia ngày càng nhiều vào việc quản lý và giám sát các hoạt động của trường đại học. Mọi người dân đều có quyền đóng góp xây dựng các chương trình hoạt động của trường đại học. Họ cũng có quyền đòi hỏi trường đại học phải cung ứng cho họ các khóa học, các học liệu để học tập suốt đời. Tự chủ đại học sẽ giúp trường đại học gắn chặt với lợi ích của cộng đồng, hoạt động vì cộng đồng và đại chúng hóa giáo dục đại học cho cộng đồng.

Sự phát triển của khoa học và công nghệ

Sự phát triển của công nghệ đã tạo nhiều cơ hội mới để các trường đại học đổi mới phương pháp giảng dạy học và học tập. Các trường có thể sử dụng các công cụ trực tuyến, các phần mềm mô phỏng, các nền tảng học tập điện tử để tăng cường tính tương tác, tính trải nghiệm và cá nhân hóa trong quá trình dạy và học.

Với việc tiếp cận và ứng dụng công nghệ mới, trường đại học có thể cải thiện chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học như xây dựng những phòng thí nghiệm ảo, những thư viện số, những phần mềm quản lý.

Nhờ phát triển của nhiều công nghệ mới, trường đại học có thể tiến hành nghiên cứu những lĩnh vực mũi nhọn, những đơn hàng của các doanh nghiệp, phối hợp với nhiều trường đại học trong và ngoài nước mở ra các trung tâm nghiên cứu về nhiều vấn đề theo yêu cầu của kinh tế, thương mại hóa các kết quả nghiên cứu, tìm kiếm và phát triển các công nghệ cốt lõi cũng như công nghệ chiến lược cho những Chương trình phát triển của quốc gia.

Xu hướng quốc tế về tự chủ đại học

Trường đại học nắm bắt kịp thời xu thế tự chủ đại học trên thế giới không chỉ để cải thiện quan hệ của mình với nhà nước, mà còn giúp cho nhà nước có được nguồn nhân lực chất lượng cao và làm tăng thêm đội ngũ trí thức trong xã hội.

Thông qua học hỏi kinh nghiệm quốc tế, trường đại học sẽ thực hiện quyền tự chủ để phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước và nâng cao năng lực hội nhập sâu hơn vào hệ thống đại học trên thế giới.

Sự tự chủ cho phép trường đại học mở rộng các chương trình phát triển học thuật, từ đó đi đầu trong việc phát triển xã hội học tập của đất nước, hiện đại hóa mô hình công dân học tập quốc gia và đào tạo những công dân học tập toàn cầu. Đây là hướng phát triển giáo dục đại học để nền giáo dục nước nhà hội nhập sâu hơn vào quá trình toàn cầu hóa, hòa mình vào nền văn hóa tiến bộ của thế giới trên nền tảng hiện đại hóa nền văn hóa dân tộc.

Việt Nam đã có những văn bản pháp quy liên quan đến vấn đề tự chủ đại học:

- Luật Giáo dục Đại học 2012 (sửa đổi, bổ sung 2018)

- Nghị quyết số 29-NQ/TW (2013)

- Nghị quyết số 77/NQ-CP (2014)

- Nghị định 60/2021/NĐ-CP (2021)

- Nghị định 16/2015/NĐ-CP (2015)

- Nghị quyết 14/2005/NQ-CP (2005)

Có thể nói, Nhà nước đã có chú ý nhiều đến vấn đề này, và Trung ương Đảng đã chỉ ra sự cần thiết phải có chính sách tự chủ đại học. Sự lúng túng, chậm trễ xây dựng những trường đại học tự chủ có nhiều nguyên nhân, một phần vì sự nhận thức của cơ quan quản lý giáo dục đại học và của không ít trường đại học chưa thấu suốt quan điểm của Đảng và Nhà nước.

Mặt khác, những cơ chế thực thi chính sách thiếu đồng bộ, làm hạn chế việc thực hiện một cách hiệu quả chủ trương và chính sách phát triển tự chủ đại học.

Để việc xây dựng mô hình tự chủ đại học được triệt để và có hiệu quả, cần thực hiện những việc sau đây:

1. Trước hết, nên bỏ mô hình Đại học quốc gia và Đại học vùng, bởi lẽ, trường đại học là thành viên của hai mô hình này phải chịu 2 tầng quản lý: Đại học Quốc gia/ Đại học vùng và Bộ Giáo dục và Đại học. Trường đại học không còn đâu sự tự chủ, sự sáng tạo khi mà muốn làm gì cũng phải thực thi những quy định mà 2 cấp trên của họ ban hành.

2. Những trường đại học thuộc Đại học quốc gia/Đại học vùng được tổ chức lại thành những tập đoàn đại học. Những tập đoàn này gắn kết thêm với những trường đại học trong và ngoài nước, với những tập đoàn kinh tế, với các doanh nghiệp lớn và những viện nghiên cứu khoa học. Cơ chế tổ chức và điều hành giống như đối với các tập đoàn kinh tế. Mỗi trường đại học thành viên hoạt động như một công ty của một tập đoàn kinh tế.

3. Những trường đại học trong nước hoạt động yếu kém, không đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế quốc dân, phục vụ thiếu hiệu quả những chương trình, dự án của quốc gia... cần được giải thể. Để tồn tại, họ sẽ tạo ra cho xã hội những sản phẩm kém chất lượng, do đó sẽ tốn tiền đào tạo lại.

4. Các trường cao đẳng nghề hoặc được nâng cấp để thành trường đại học. Những đại học này có 2 chương trình đào tạo: Hệ 2-3 năm đào tạo những công nhân/nhân viên; Hệ 4-5 năm đào tạo những kỹ sư/cử nhân.

5. Những doanh nghiệp lớn, những tập đoàn kinh tế có thể mở trường đại học để trực tiếp đào tạo mới và đào tạo lại nhân sự cho chính họ. Mặt khác, những trường của doanh nghiệp hoặc tập đoàn có thể đào tạo theo các đơn hàng của các công ty, các tổ chức trong và ngoài nước.

6. Những lao động làm nghề tự do, trong khu vực sẽ do các cơ sở dạy nghề tư nhân hoạt động trong những cộng đồng dân cư cấp xã đảm nhiệm.

7. Thực hiện 6 điều trên đây, Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ chỉ quản lý giáo dục phổ thông. Trong những năm tới, việc phổ cập giáo dục phổ thông 12 năm là điều bắt buộc. Học vấn phổ thông 12 năm là kiến thức cơ sở để thế hệ trẻ học tiếp ở hệ đại học 2-3 năm hoặc 4-5 năm. Lúc đó, không cần đến kế hoạch phân luồng học sinh phổ thông, mà chỉ cần chương trình giáo dục hướng nghiệp, giáo dục khởi nghiệp để các em được học chuyên sâu trong hệ thống đại học.

Do đó, hệ thống giáo dục phổ thông không nên chia thành cấp học, và từ đó xóa bỏ các kỳ thi chuyển cấp rất tốn kém và đầy áp lực đối với tâm lý trẻ.

Đến đây, Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ cởi bỏ chức năng "đào tạo", trở về cái tên Bộ Giáo dục như trước đây.

Nếu giáo dục phổ thông được Chính phủ giao cho chính quyền cấp tỉnh đảm nhiệm quản lý thì địa phương phải phát huy quyền tự chủ giáo dục của mình.

8. Các trường đại học với quyền tự chủ của mình sẽ mở ra các khóa học cho người lớn, đáp ứng yêu cầu học tập suốt đời, xây dựng cả nước trở thành một xã hội học tập. Sau năm 2030, khi thực hiện đột phá thành công về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, nhu cầu phổ cập kiến thức đại học sẽ tăng nhanh.

Những tập đoàn giáo dục, những đại học mở sẽ phổ cập các dịch vụ giáo dục đại học theo hướng cá nhân hóa trong học tập suốt đời. Dịch vụ giáo dục sẽ dần trở thành dịch vụ giáo dục chung toàn cầu.

GS.TS Phạm Tất Dong

Nguồn Công dân & Khuyến học: https://congdankhuyenhoc.vn/tam-quan-trong-cua-tu-chu-dai-hoc-voi-chien-luoc-phat-trien-quoc-gia-179250624153357693.htm