Sự khác nhau giữa tục cúng Táo quân ở Việt Nam và Trung Quốc
Cùng coi Táo quân là vị thần bảo hộ cho gia đình nhưng lễ cúng ông Công, ông Táo ở Việt Nam và Trung Quốc có những nét khác biệt.
1. Ngày cúng: Ở Việt Nam, tục lệ cúng Táo quân (ông Công, ông Táo) thường diễn ra vào ngày 23 tháng Chạp. Tiến sĩ văn hóa học Nguyễn Thị Hồng cho rằng các gia đình không nên cúng quá sớm, tuyệt đối tránh cúng vào đúng ngày rằm tháng Chạp. Theo đó, nên cúng sớm nhất là từ 20-23 tháng Chạp. Theo tín ngưỡng dân gian, 12 giờ trưa ngày 23 tháng Chạp là thời điểm ông Công, ông Táo đã bay về chầu trời. Vì thế việc cúng lễ cần tiến hành trước giờ này.
2. Vị thần đại diện: Dù có nhiều dị bản khác nhau về nguồn gốc của các vị Thần Bếp, sự tích Táo quân của người Việt phổ biến nhất là câu chuyện về 3 nhân vật. Theo đó, có cặp vợ chồng nghèo khổ, sau một năm mất mùa, người chồng phải đi làm ăn xa, nhiều năm bặt tin không về. Người vợ để tang chồng, sau đó nối duyên với một người đã cưu mang nàng. Khi chồng cũ trở về, vô tình bị chồng mới đốt đống rơm giết chết. Cô vợ đau xót lao vào, người chồng mới cũng nhảy vào tự vẫn theo. Trời thấy ba người sống đầy tình nghĩa nên phong cho họ làm vua Bếp để được gần nhau mãi mãi và để lửa luôn đốt nóng tình yêu của họ.
3. Loài vật đưa ông Táo chầu trời: Theo tục lệ dân gian Việt Nam, Táo quân khi về chầu Trời để báo cáo công việc trong năm sẽ cưỡi cá vàng. Vì vậy sau khi làm lễ cúng và hóa vàng mã, người dân sẽ thả cá vàng để tiễn ông Công, ông Táo về trời.
4. Đồ cúng: Ở Việt Nam, khi thực hiện lễ cúng ông Công, ông Táo, các gia đình thường làm mâm cỗ mặn gồm đĩa gạo, đĩa muối, thịt lợn luộc, canh mọc, đĩa xào thập cẩm, giò, xôi gấc, hoa quả, hoa tươi. Lễ vật cần chuẩn bị gồm 3 bộ quần áo, mũ, giày với một con ngựa bằng giấy hoặc 3 con cá chép và tiền vàng.