Sau mưa lũ miền Trung: Khủng hoảng nước sạch và nguy cơ bệnh tật
Mưa lũ khiến nguồn nước sạch ở miền Trung cạn kiệt, hàng trăm nghìn giếng bị ô nhiễm. Nguy cơ bùng phát bệnh tiêu chảy, tả, thương hàn tăng cao.
Mưa lũ liên tiếp ở khu vực miền Trung không chỉ gây thiệt hại về tài sản, hoa màu, cơ sở hạ tầng mà còn khiến hàng trăm nghìn hộ dân rơi vào cảnh khan hiếm nước sinh hoạt.
Mưa lũ rút, nước sạch biến mất
Những ngày đầu tháng 11.2025, khi mưa lũ dần rút ở các tỉnh từ Hà Tĩnh đến Quảng Ngãi, người dân lại đối mặt với một nỗi lo mới - thiếu nước sạch. Nước trong các bể chứa, giếng đào, giếng khoan hay ao hồ đều chuyển màu đục, bốc mùi lạ, thậm chí nổi váng. Nhiều gia đình dù khát cũng không dám uống, còn chuyện tắm giặt, sinh hoạt hằng ngày trở thành nỗi bất an thường trực.

Sau lũ lụt, các tỉnh miền Trung đối diện với tình trạng thiếu nước sạch và nguy cơ dịch bệnh tấn công - Ảnh: Internet
Khi nước lũ rút, nước sạch lại trở thành thứ quý hơn cả lương thực. Cảnh “nước thì đầy mà không thể dùng” diễn ra sau mỗi mùa lũ, nhưng năm nay nghiêm trọng hơn vì mực nước ngầm dâng cao liên tục, cuốn theo rác thải, xác động vật, phân chuồng, chất thải sinh hoạt tràn vào nguồn nước.
Nhiều nơi, nhất là những vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa người dân phải dùng nước đục ngầu, nhiễm bẩn, thậm chí có nguy cơ lẫn vi khuẩn gây bệnh đường ruột.
Theo thống kê của Văn phòng Thường trực Ban Chỉ đạo Quốc gia về Phòng, chống thiên tai, khoảng 340.000 giếng đào và giếng khoan ở các tỉnh miền Trung bị ô nhiễm hoặc hư hỏng; hơn 80% bể chứa nước hộ gia đình bị lấp bùn, nước mưa cuốn rác và phân động vật.
Đó là chưa kể, sau các đợt lũ, hệ thống nước sạch ở nhiều địa phương miền Trung bị hư hại. Mới đây, Nhà máy nước Tuy Phong (thuộc Ban Quản lý công trình công cộng khu vực Tuy Phong, tỉnh Lâm Đồng) phải ngừng hoạt động do nguồn nước thô bị đục, nhiễm mặn hoặc tạp chất quá ngưỡng xử lý.
Phân tích của các chuyên gia môi trường cho thấy, nguồn nước sau lũ chứa nhiều yếu tố rủi ro: rác thải, xác động vật và phân chuồng, làm gia tăng mật độ vi khuẩn E.coli, Salmonella - tác nhân gây tiêu chảy, tả và thương hàn. Lũ làm ngập hệ thống hố xí, chuồng gia súc, khiến chất thải ngấm vào tầng nước ngầm; giếng khoan và giếng đào bị hở, tạo điều kiện để nước bẩn xâm nhập trực tiếp; nước mưa thu vào bể chứa trên mái cũng dễ nhiễm bụi kim loại nặng, rong rêu và ấu trùng côn trùng.
GS-TS Nguyễn Hữu Dũng - Viện trưởng Viện Môi trường đô thị và công nghiệp Việt Nam - cho biết nhiều người nhìn thấy nước trong thì nghĩ là sạch. Điều đó cực kỳ nguy hiểm. Vi khuẩn và hóa chất độc hại không thể nhìn bằng mắt thường. Nếu không xử lý đúng, hậu quả có thể xuất hiện trong vòng 24 - 72 giờ.
“Nếu lũ lụt là tai họa trước mắt, thì ô nhiễm nước sau lũ là hiểm họa âm thầm. Vi khuẩn đường ruột, ký sinh trùng, vi khuẩn tả, thương hàn… tồn tại trong nước ô nhiễm có thể gây dịch bệnh ngay cả khi nước trông trong”, ông Dũng nhấn mạnh.
Theo Cục Phòng bệnh (Bộ Y tế), 14 ngày sau lũ là “thời điểm vàng” để hạn chế dịch bệnh. Nếu các biện pháp xử lý nước không được triển khai kịp thời, các bệnh tiêu chảy cấp, tả; thương hàn; viêm da, nấm da; viêm kết mạc; sốt xuất huyết… có thể bùng phát. Điều này là do uống nước nhiễm khuẩn, tắm giặt bằng nước bẩn, rửa mặt bằng nước nhiễm khuẩn cũng như muỗi phát triển trong nước đọng.
“Có hộ gia đình tưởng chỉ đun nước lên là xong. Nhưng nếu nguồn nước nhiễm hóa chất, kim loại nặng hoặc thuốc trừ sâu, đun sôi không thể loại bỏ độc tố. Đó mới là nguy cơ thực sự”, đại diện Cục phòng bệnh cảnh báo.
Các địa phương cần làm gì?
Sự thiếu hụt nước sạch đang đặt ra bài toán lớn cho ngành y tế dự phòng, chính quyền địa phương và các tổ chức nhân đạo.
GS Dũng khuyến cáo: “Điều quan trọng nhất là phải xử lý nước theo trình tự chuẩn. Không được bỏ bước, không làm theo cảm tính”.
Theo các chuyên y tế dự phòng, việc xử lý nước tại hộ gia đình phải được thực hiện theo quy trình: Vớt sạch rác, bùn nổi; lắng nước bằng phèn chua (1 thìa cà phê phèn cho 20 - 25 lít nước, chờ lắng 30 - 60 phút); lọc qua lớp lọc tạm nếu có; khử trùng bằng Cloramin B hoặc dung dịch Javen (pha đúng liều theo hướng dẫn Bộ Y tế ); đun sôi tối thiểu 3 phút trước khi uống.
Ngoài xử lý hộ gia đình, các địa phương cần triển khai: Đội xử lý giếng cơ động (rửa giếng - bơm vét - khử trùng - lấy mẫu xét nghiệm); lập điểm cấp nước sạch tập trung bằng xe bồn hoặc trạm lọc dã chiến; phát máy lọc công suất nhỏ cho điểm dân cư bị cô lập.
PGS-TS Phạm Ngọc Hoàng, chuyên gia hóa môi trường, nhấn mạnh: “Mỗi năm miền Trung đều đối diện với lũ. Nếu năm nào cũng đợi lũ rút rồi xử lý giếng thì đó là tư duy đối phó, không phải phòng chống thiên tai chủ động”.
Để tránh ô nhiễm diện rộng mỗi mùa mưa lũ, giảm nguy cơ giếng bị xâm nhập nước bẩn, ông Hoàng cho biết cần xây dựng hệ thống cấp nước nông thôn chống ngập, chuẩn hóa vị trí giếng khoan, giếng đào. Ngoài ra, để giảm nguy cơ bệnh đường ruột lâu dài cũng như tránh sai sót gây ngộ độc Clo, hoặc dùng nước chưa an toàn cần hỗ trợ hộ nghèo lắp bộ lọc áp lực tiêu chuẩn, tuyên truyền hướng dẫn xử lý nước bài bẩn.
Việc đầu tư nước sạch không chỉ bảo vệ sức khỏe mà còn giảm chi phí y tế và giúp người dân phục hồi kinh tế sau lũ nhanh hơn. “Giai đoạn sau lũ còn nguy hiểm hơn lúc nước dâng. Nếu không bảo đảm nước sạch, dịch bệnh có thể bùng phát trên diện rộng ngay trong vài tuần tới”, GS Dũng nói.











