Quy hoạch vùng trung du và miền núi phía bắc: Bản sắc-Sinh thái-Liên kết-Hạnh phúc
Quy hoạch vùng trung du và miền núi phía bắc thời kỳ 2021-2030 nhấn mạnh việc giữ chân nguồn nhân lực, phát triển du lịch và nông nghiệp dựa trên giá trị bản sắc của các cộng đồng bản địa; phát triển vùng trên cơ sở bảo đảm sinh thái bền vững; tập trung phát triển hạ tầng kết nối vùng; phát triển kinh tế phải đi kèm với tiến bộ, công bằng xã hội.
Dự kiến sáng 24/5, Chính phủ tổ chức Hội nghị Hội đồng điều phối vùng trung du và miền núi phía bắc; đồng thời công bố quy hoạch Vùng thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Trước thềm hội nghị, Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng đã có những chia sẻ chung quanh những nhiệm vụ trọng tâm và đột phá đề ra trong quy hoạch để thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển vùng giai đoạn tới.
Theo Bộ trưởng, bản quy hoạch vùng có ý nghĩa quan trọng, với tư duy mới, tầm nhìn mới, có sự bứt phá hướng đến việc chủ động kiến tạo để phát triển; tập trung xác định và giải quyết các vấn đề lớn, có tính liên ngành, liên vùng, liên tỉnh; mạnh dạn tái cơ cấu kinh tế, tổ chức lại không gian phát triển vùng và khai thác, phát huy có hiệu quả mọi nguồn lực nhằm phát triển vùng nhanh, bền vững.
Nội dung của Quy hoạch vùng Trung du và miền núi phía Bắc thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 được thể hiện qua 8 chữ: Bản sắc-Sinh thái-Liên kết-Hạnh phúc.
Phát triển du lịch dựa trên giá trị bản sắc của các cộng đồng bản địa
Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết, vùng trung du và miền núi phía bắc là địa bàn có nhiều đồng bào các dân tộc sinh sống với bản sắc văn hóa độc đáo, đa dạng, là dân tộc “đa số” thay vì quan niệm dân tộc thiểu số thông thường; nhiều di tích lịch sử, văn hóa có tiềm năng mang lại lợi ích kinh tế cho người dân địa phương, tạo ra động lực mới cho sự phát triển vùng.
Theo đó, Quy hoạch vùng trung du và miền núi phía bắc nhấn mạnh công tác giữ gìn và phát huy bản sắc, giá trị văn hóa các dân tộc hướng tới xây dựng hệ thống đô thị, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt nhấn mạnh việc giữ chân nguồn nhân lực, phát triển du lịch và nông nghiệp dựa trên giá trị bản sắc của các cộng đồng bản địa.
Triển khai rộng rãi các loại hình dịch vụ môi trường rừng mới
Hiện nay, tăng trưởng xanh là xu hướng tiếp cận mới trong phát triển kinh tế của các quốc gia trên thế giới. Không chỉ mang lại lợi ích kinh tế, mà tăng trưởng xanh còn hướng tới phục hồi và bảo tồn hệ sinh thái thiên nhiên, đồng thời góp phần quan trọng vào thực hiện chống biến đổi khí hậu.
“Việt Nam nói chung và vùng trung du và miền núi phía bắc nói riêng đang được đánh giá có rất nhiều tiềm năng về phát triển các lĩnh vực kinh tế xanh, gắn với rừng và dịch vụ môi trường rừng”, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nêu rõ.
Để hướng tới hình mẫu phát triển xanh của cả nước, quy hoạch đã đề ra các nội dung gồm:
Thứ nhất, phát triển vùng trên cơ sở bảo đảm sinh thái bền vững. Theo Bộ trưởng, vùng trung du và miền núi phía bắc đóng vai trò trọng yếu là “phên dậu”, cửa ngõ phía bắc của quốc gia, có vai trò quyết định đối với an ninh nguồn nước và môi trường sinh thái, là nơi bảo vệ đa dạng sinh học và rừng đầu nguồn của cả vùng Bắc Bộ.
Do đó, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả, bền vững tài nguyên, nhất là tài nguyên rừng, khoáng sản, đất và nước cần được coi là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, là trung tâm trong các quyết định phát triển vùng.
Thứ hai, đề xuất hình thành các hành lang phát triển sinh thái liên tỉnh, liên vùng thông qua kết nối những khu vực sinh thái trọng điểm và rừng phòng hộ bằng những hành lang xanh; cải thiện chất lượng rừng, đặc biệt là rừng phòng hộ quanh khu vực rừng đặc dụng và các khu bảo tồn nhằm tăng đa dạng sinh học.
Đồng thời, triển khai rộng rãi các loại hình dịch vụ môi trường rừng mới như: dịch vụ hấp thụ carbon (tham gia thị trường tín chỉ carbon), dịch vụ hệ sinh thái rừng và du lịch sinh thái rừng; coi đây là tiềm năng, lợi thế lớn cần khai thác hiệu quả.
Tập trung phát triển hạ tầng kết nối vùng
Về liên kết vùng, Bộ trưởng cho biết, liên kết phát triển vùng được xem là xu thế tất yếu, là động lực kết nối và dẫn dắt sự phát triển của các địa phương trong vùng.
Liên kết vùng nhằm phát huy cao nhất tiềm năng, lợi thế của từng địa phương, lợi thế nhờ quy mô của cả vùng, nhất là lợi thế về kinh tế lâm nghiệp, giúp giải quyết những vấn đề phát triển chung của vùng, nhất là trong bảo vệ môi trường, phòng chống thiên tai, bão, lũ và thích ứng với biến đổi khí hậu, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các địa phương trong vùng, giữa vùng với các vùng trong cả nước.
Nội dung về liên kết vùng trong bản quy hoạch vùng tập trung vào phát triển hạ tầng kết nối vùng. Trong đó, ưu tiên các kết nối kết nối vùng với Thủ đô Hà Nội, vùng đồng bằng sông Hồng, tiểu vùng Bắc Trung Bộ và quốc tế; các kết nối Đông-Tây; kết nối quốc tế qua Lào; kết nối về phía biển, các sân bay, cảng và các cửa khẩu quan trọng, với việc ưu tiên nâng cấp các tuyến đường sắt liên vận với Trung Quốc qua cửa khẩu Lào Cai và cửa khẩu Hữu Nghị; đẩy nhanh tiến độ khởi công xây dựng các tuyến đường sắt tốc độ cao Lạng Sơn-Hà Nội, Lào Cai-Hà Nội-Hải Phòng-Quảng Ninh.
Đồng thời, liên kết để phát triển theo 5 hành lang kinh tế (Lào Cai-Yên Bái-Phú Thọ - Hà Nội; Lạng Sơn-Bắc Giang-Hà Nội; Điện Biên-Sơn La-Hòa Bình-Hà Nội; Hà Giang-Tuyên Quang-Phú Thọ-Hà Nội; Cao Bằng-Bắc Kạn-Thái Nguyên-Hà Nội), và khu vực động lực tại vành đai Bắc Giang-Thái Nguyên-Phú Thọ gắn với vùng Thủ đô.
Quy hoạch cũng tập trung hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển vùng và liên kết vùng đủ mạnh; tăng cường vai trò của các địa phương trong Hội đồng điều phối vùng, bảo đảm liên kết vùng xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của các địa phương.
Có thể kể đến một số vấn đề then chốt như: điều tiết, cân bằng lợi ích giữa các địa phương như xử lý các xung đột về lợi ích, đặc biệt là trong phát triển cơ sở hạ tầng, khai thác tài nguyên, bảo vệ môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu; điều hòa lợi ích của quốc gia và lợi ích của từng địa phương và khuyến khích liên kết tự nguyện giữa các địa phương thông qua các chương trình hỗ trợ tài chính, hỗ trợ kỹ thuật và chính sách tạo thuận lợi, khuyến khích địa phương liên kết.
Ngoài ra, quy hoạch nhấn mạnh việc phát triển nguồn nhân lực, tăng cường phối hợp và liên kết trong đào tạo phát triển nguồn nhân lực; chia sẻ, liên kết trong phát triển khoa học và công nghệ hướng vào giải quyết những vấn đề công nghệ đặt ra trong phát triển vùng; hình thành và tăng cường liên kết mạng lưới các trung tâm ứng dụng công nghệ cao.
Cùng với đó là liên kết các địa phương trong khai thác tiềm năng, lợi thế về phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp, du lịch và kinh tế cửa khẩu; tích cực xử lý các vấn đề mang tính chất vùng như môi trường, sinh thái, sử dụng hiệu quả, tiết kiệm tài nguyên, an ninh nguồn nước, an ninh rừng.
Phát triển kinh tế đi kèm với tiến bộ, công bằng xã hội
Quy hoạch xác định phát triển kinh tế phải đi kèm với tiến bộ, công bằng xã hội, bản quy hoạch đã đề ra các định hướng nhằm giải quyết nhiệm vụ xóa đói giảm nghèo, giữ gìn an ninh biên giới, nâng cao chất lượng dịch vụ xã hội cơ bản, đặc biệt là y tế, giáo dục đào tạo.
Qua đó, nâng cao sự hài lòng của nhân dân về cuộc sống, trong đó có các yếu tố về sức khỏe, tinh thần, giáo dục, môi trường, chất lượng quản lý và mức sống của người dân; lấy sự hạnh phúc của người dân làm thước đo về sự thành công của định hướng phát triển.