Luật sư Bùi Thanh Vũ tư vấn pháp luật về hủy kết hôn trái pháp luật
Luật sư Bùi Thanh Vũ-Trưởng Văn phòng Luật sư Vinh Phú kiêm Trưởng Chi nhánh Gia Lai tư vấn pháp luật về hủy kết hôn trái pháp luật và công nhận quan hệ hôn nhân.
*Bạn đọc T.T.M. hỏi: Gần nhà tôi có cháu C. là nữ bị cưỡng ép kết hôn. Vậy cháu có được tự mình yêu cầu tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật không? Khi tòa án đang giải quyết yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật mà 2 bên muốn công nhận quan hệ hôn nhân thì có được chấp thuận không?
Luật sư Bùi Thanh Vũ-Trưởng Văn phòng Luật sư Vinh Phú kiêm Trưởng Chi nhánh Gia Lai-trả lời:
Điều 10 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 về người có quyền yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật quy định như sau:
1. Người bị cưỡng ép kết hôn, bị lừa dối kết hôn, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền tự mình yêu cầu hoặc đề nghị cá nhân, tổ chức quy định tại khoản 2 Điều này yêu cầu tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật do việc kết hôn vi phạm quy định tại điểm b khoản 1 Điều 8 của Luật này.
2. Cá nhân, cơ quan, tổ chức sau đây, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật do việc kết hôn vi phạm quy định tại các điểm a, c và d khoản 1 Điều 8 của Luật này:
a) Vợ, chồng của người đang có vợ, có chồng mà kết hôn với người khác; cha, mẹ, con, người giám hộ hoặc người đại diện theo pháp luật khác của người kết hôn trái pháp luật;
b) Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình;
c) Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em;
d) Hội Liên hiệp phụ nữ.
3. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khác khi phát hiện việc kết hôn trái pháp luật thì có quyền đề nghị cơ quan, tổ chức quy định tại các điểm b, c và d khoản 2 Điều này yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật.
Như vậy, theo quy định trên, trường hợp người vợ bị cưỡng ép kết hôn thì có quyền tự mình yêu cầu tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật.
Đồng thời, Điều 11 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 về xử lý việc kết hôn trái pháp luật quy định như sau:
1. Xử lý việc kết hôn trái pháp luật được tòa án thực hiện theo quy định tại Luật này và pháp luật về tố tụng dân sự.
2. Trong trường hợp tại thời điểm tòa án giải quyết yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật mà cả 2 bên kết hôn đã có đủ các điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 8 của Luật này và 2 bên yêu cầu công nhận quan hệ hôn nhân thì tòa án công nhận quan hệ hôn nhân đó. Trong trường hợp này, quan hệ hôn nhân được xác lập từ thời điểm các bên đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này.
3. Quyết định của tòa án về việc hủy kết hôn trái pháp luật hoặc công nhận quan hệ hôn nhân phải được gửi cho cơ quan đã thực hiện việc đăng ký kết hôn để ghi vào sổ hộ tịch; 2 bên kết hôn trái pháp luật; cá nhân, cơ quan, tổ chức liên quan theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.
4. Tòa án nhân dân tối cao chủ trì phối hợp với Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp hướng dẫn Điều này.
Như vậy, khi tòa án đang giải quyết yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật mà các bên muốn công nhận quan hệ hôn nhân thì tại thời điểm đó, các bên phải có đủ các điều kiện kết hôn và 2 bên yêu cầu công nhận quan hệ hôn nhân thì tòa án công nhận quan hệ hôn nhân đó. Thời điểm quan hệ hôn nhân được xác lập được tính từ thời điểm các bên đủ điều kiện kết hôn.
Quyết định của tòa án về việc công nhận quan hệ hôn nhân phải được gửi cho cơ quan đã thực hiện việc đăng ký kết hôn để ghi vào sổ hộ tịch; 2 bên kết hôn trái pháp luật; cá nhân, cơ quan, tổ chức liên quan theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.