Bình Phước những trang sử vẻ vang

BÀI CUỐI
VAI TRÒ CỦA BỘ TƯ LỆNH MIỀN TRONG CHIẾN DỊCH HỒ CHÍ MINH LỊCH SỬ

BPO -Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, trực tiếp chỉ huy các lực lượng vũ trang cách mạng trên chiến trường Nam Bộ, cực Nam Trung Bộ, Nam Tây Nguyên (gọi tắt là B2) là Bộ Chỉ huy các lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng miền Nam Việt Nam, gọi tắt là Bộ Chỉ huy Miền (từ ngày 18-3-1971, gọi là Bộ Tư lệnh Miền). Ra đời từ năm 1961, Bộ Tư lệnh Miền là cơ quan chỉ huy cao nhất của các lực lượng vũ trang giải phóng trên chiến trường B2, thực hiện các chức năng cơ bản: làm tham mưu cho Trung ương Cục miền Nam lãnh đạo phong trào đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang, trực tiếp chỉ đạo, chỉ huy các lực lượng vũ trang chiến đấu chống đế quốc Mỹ và quân đội Sài Gòn.

Căn cứ đầu tiên của Bộ Chỉ huy Miền đặt tại khu vực Trảng Chiên - Xa Mát - Lò Gò (Bắc Tây Ninh, giáp biên giới Việt Nam - Campuchia). Từ năm 1965, khi Mỹ trực tiếp đưa quân chiến đấu và đồng minh vào chiến trường miền Nam, căn cứ Bộ Chỉ huy Miền chuyển dần sang hướng Đông, khu vực Bà Chiêm - Sóc Con Trăng. Sau thắng lợi của Chiến dịch Nguyễn Huệ, vùng giải phóng được mở rộng ở phía bắc Bình Phước (gồm các huyện Lộc Ninh, Bù Đốp, Bù Gia Mập), nối liền với Căn cứ khu B, tạo thành một khu vực do cách mạng kiểm soát rộng lớn giáp với biên giới trong thế chiến lược Đông Dương là một chiến trường và kết nối trực tiếp với đường vận tải chiến lược 559 từ hậu phương lớn miền Bắc vào chiến trường Đông Nam Bộ. Trong bối cảnh đó, Bộ Tư lệnh Miền quyết định di chuyển căn cứ đứng chân nhằm đáp ứng yêu cầu trong giai đoạn cách mạng mới. Địa điểm được chọn là khu vực sóc Tà Thiết.

Căn cứ Bộ Chỉ huy Quân giải phóng miền Nam Việt Nam tọa lạc tại xã Lộc Thành, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước - Ảnh tư liệu

Căn cứ Bộ Chỉ huy Quân giải phóng miền Nam Việt Nam tọa lạc tại xã Lộc Thành, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước - Ảnh tư liệu

Tà Thiết có diện tích chừng 20km2, thuộc xã Lộc Thành, huyện Lộc Ninh, từng là nơi đặt Sở chỉ huy tiền phương của Bộ Tư lệnh Miền (mật danh Đoàn 301) trong đợt 2 của Chiến dịch Nguyễn Huệ. So với các căn cứ cũ của Bộ Tư lệnh Miền ở Bắc Tây Ninh, Căn cứ Tà Thiết có thế rừng rộng lớn hơn, đáp ứng yêu cầu bố trí toàn bộ cơ quan (tham mưu, chính trị, hậu cần - kỹ thuật) và các đơn vị trực thuộc ở các vị trí Lộc Thành, Lộc Tấn, Sông Măng, Cầu Trắng, Bù Đốp. Tại đây có cơ sở hạ tầng giao thông cơ giới thuận tiện, đấu nối với đường Hồ Chí Minh trên bộ để tiếp nhận vật chất hậu cần chiến lược từ hậu phương miền Bắc tại Bù Đốp (quốc lộ 14) và các đầu cầu khác tại Lộc Tấn (quốc lộ 13), Đồng Tâm (tỉnh lộ 17), kéo dài qua Cà Tum (tỉnh lộ 4), Thiện Ngôn (quốc lộ 22). Đây cũng là vùng giải phóng có dân, đã được Phân khu ủy Bình Phước chỉ đạo xây dựng căn cứ địa cách mạng, có làng xã chiến đấu, có vành đai vững chắc vòng ngoài; gần sát với “thủ phủ” của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tại thị trấn Lộc Ninh.

Từ tháng 9-1974, khi quân đội và chính quyền Sài Gòn bắt đầu bộc lộ sự suy yếu toàn diện, tại Căn cứ Tà Thiết, Bộ Tư lệnh Miền đã gửi nhiều báo cáo phân tích tình hình, nhận định đánh giá và phác thảo kế hoạch giải phóng miền Nam lên Trung ương Cục, Quân ủy Trung ương và Bộ Chính trị Trung ương Đảng. Tháng 10-1974, Bộ Chính trị ra dự thảo nghị quyết với nội dung cơ bản trong thời gian 1975-1976 hoàn thành mọi công tác chuẩn bị, tạo điều kiện chín muồi tiến hành tổng công kích tổng khởi nghĩa đánh đổ ngụy quyền, giải phóng miền Nam. Trên cơ sở ý định của Trung ương, Bộ Tư lệnh Miền xây dựng kế hoạch mùa khô 1974-1975 với những mục tiêu cơ bản: tiêu diệt và làm tan rã một bộ phận quan trọng lực lượng và phương tiện chiến tranh của địch; phá cơ bản kế hoạch bình định của chúng; hoàn chỉnh căn cứ địa miền Đông Nam Bộ, giải phóng đường 14 - Phước Long, bao vây Sài Gòn từ hướng Bắc; giải phóng lộ 20, Tánh Linh, Võ Đắc, Xuân Lộc, bao vây cô lập Sài Gòn từ hướng Đông; giải phóng Dầu Tiếng, Bàu Đồn, Truông Mít, uy hiếp lộ 22, bao vây Sài Gòn từ phía Tây Bắc; giải phóng khu vực Bến Cát, Quéo Ba, phân tuyến Vàm Cỏ Đông, mở hành lang xuống đồng bằng, bao vây Sài Gòn từ hướng Tây, Tây Nam; đưa lực lượng đặc công biệt động bám vào ven đô thành phố Sài Gòn.

Ngày 6-1-1975, tỉnh Phước Long giải phóng. Thời cơ chiến lược giải phóng miền Nam lộ diện. Bộ Chính trị thông qua kế hoạch giải phóng miền Nam. Tại Căn cứ Tà Thiết, Bộ Tư lệnh Miền điều chỉnh kế hoạch đợt 2 mùa khô 1974-1975. Ngày 1-4-1975, Bộ Chính trị họp hạ quyết tâm giải phóng Sài Gòn trước mùa mưa. Ngày 7-4-1975, phương án đánh vào Sài Gòn do Bộ Tư lệnh Miền soạn thảo tại Căn cứ Tà Thiết được Bộ Chính trị chỉ đạo điều chỉnh, tổ chức một chiến dịch quy mô lớn tập trung lực lượng với ưu thế áp đảo gồm 15 sư đoàn đánh vào Sài Gòn. Ngày 8-4, Bộ Chỉ huy Chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định (ngày 14-4 mang tên Chiến dịch Hồ Chí Minh) được thành lập.

Chấp hành chỉ thị của Bộ Chính trị, tại Căn cứ Tà Thiết, Bộ Tư lệnh Miền chỉ đạo sắp xếp lại các đơn vị chủ lực, điều chuyển các đoàn hậu cần khu vực từ nhiệm vụ phục vụ các chiến dịch của Miền và các quân khu chuyển sang phục vụ cho 5 quân đoàn chủ lực của chiến dịch; chỉ huy lực lượng vũ trang B2 bắt đầu thực hiện các đòn chia cắt chiến lược. Quân đoàn 4 tiến công căn cứ Sư đoàn 18 ngụy tại Xuân Lộc. Binh đoàn cánh Tây Nam chặn cát lộ 4 và tiến công trên hướng Tây và Tây Nam. Lực lượng vũ trang đồng bằng sông Cửu Long tiến sát lộ 4, thành phố Cần Thơ, thị xã Vĩnh Long, các tỉnh lỵ, huyện lỵ. Toàn bộ lực lượng vũ trang Thành đội Sài Gòn - Gia Định chiếm lĩnh các vị trí bàn đạp sát nội đô Sài Gòn. Ngoài một số cán bộ trong Bộ Tư lệnh Miền và các cơ quan tham gia Bộ Tư lệnh và các cơ quan Chiến dịch Hồ Chí Minh, trên tất cả các hướng. Tại Căn cứ Tà Thiết, bộ phận còn lại chủ yếu là 3 cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần tập trung vào mặt trận đồng bằng sông Cửu Long. Có thể nói rằng, trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975, Bộ Tư lệnh Miền đã góp một phần công sức vào thắng lợi chung, từ việc nhận định tình hình, đề đạt phương án tác chiến, tạo thế, tạo lực, tham gia chỉ đạo chỉ huy trong Chiến dịch Hồ Chí Minh và tổng tiến công, nổi dậy ở đồng bằng sông Cửu Long.

Chỉ tồn tại trong vòng 26 tháng (tháng 2-1973 - 4-1975), nhưng Căn cứ Tà Thiết có vai trò quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Trong thời gian rất ngắn, Bộ Tư lệnh Miền đã chỉ đạo khẩn trương kiện toàn các sư đoàn chủ lực, thành lập Quân đoàn 4 và Binh đoàn 232, thành lập các sư đoàn thuộc các quân khu, tổ chức các đoàn đặc công biệt động xung quanh Sài Gòn, củng cố hệ thống chỉ huy, đẩy mạnh công tác huấn luyện nhằm tăng cường sức chiến đấu và khả năng chiến đấu hiệp đồng binh chủng lớn cho bộ đội, tăng cường trang bị vũ khí kỹ thuật, bảo đảm hậu cần và dự trữ cơ sở vật chất trên tất cả các hướng, các chiến trường; chủ động, táo bạo tổ chức thắng lợi Chiến dịch Đường 14 - Phước Long, thực hiện đòn trinh sát chiến lược cho trận quyết chiến cuối cùng. Cũng tại đây, Bộ Tư lệnh Miền đã chỉ đạo lực lượng vũ trang 3 thứ quân tổ chức hàng loạt trận đánh, chiến dịch, hỗ trợ nhân dân địa phương thực hiện tỉnh giải phóng tỉnh, huyện giải phóng huyện, xã giải phóng xã; đồng thời tích cực chuẩn bị chiến trường, chia cắt và chiếm giữ các trục đường, các đầu cầu, phối hợp với các binh đoàn của bộ đánh chiếm các mục tiêu quan trọng trong thành phố Sài Gòn, đánh chiếm các địa phương còn lại trên toàn bộ đồng bằng sông Cửu Long. Căn cứ Tà Thiết cũng là nơi làm việc của một số ủy viên Bộ Chính trị (Lê Đức Thọ, Phạm Hùng, Văn Tiến Dũng) và Bộ Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh trong thời khắc hệ trọng cuối cùng của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược. Từ đây, các chủ trương và kế hoạch lớn được hình thành và phát đi, chỉ dẫn cho toàn quân, toàn dân tiến lên thực hiện trận quyết chiến chiến lược cuối cùng trong thời điểm có ý nghĩa bước ngoặt: giải phóng Sài Gòn, giải phóng hoàn toàn miền Nam!

Hồ Sơn Đài

Nguồn Bình Phước: https://baobinhphuoc.com.vn/news/1/171705/binh-phuoc-nhung-trang-su-ve-vang