Vốn con người - yếu tố quyết định mục tiêu tăng trưởng hai chữ số của Việt Nam?

Dân số vàng mang lại lợi thế chưa từng có, nhưng nếu không đầu tư đúng mức vào vốn con người – từ giáo dục, đào tạo đến y tế và năng suất lao động – Việt Nam có thể bỏ lỡ cơ hội bứt phá để đạt mục tiêu tăng trưởng hai chữ số.

Kể từ tháng 9 năm ngoái tới nay, hơn 200 nhân sự đã gia nhập đội ngũ của SAP Labs Việt Nam – trung tâm nghiên cứu và phát triển toàn cầu thứ hai tại Đông Nam Á của Tập đoàn hàng đầu về phần mềm SAP. Đến năm 2027, con số này dự kiến sẽ tăng lên 500.

Nhưng với SAP, việc mở cửa tại TP.HCM không chỉ là chuyện tuyển thêm nhân sự mà còn hướng đến xây dựng một hệ sinh thái cho các nhân tài, kết nối các chuyên gia công nghệ sáng tạo và am hiểu công nghệ nhất của Việt Nam.

Lãnh đạo của SAP cũng nhấn mạnh rằng, thành tích nổi bật của Việt Nam trong đổi mới công nghệ cùng lực lượng kỹ sư phần mềm ngày càng phát triển đã đưa TP.HCM trở thành lựa chọn lý tưởng.

Đằng sau quyết định của SAP là một thực tế rộng lớn hơn: vốn con người đang trở thành yếu tố then chốt quyết định vị thế cạnh tranh của Việt Nam trong thời đại số nói riêng và kỷ nguyên vươn mình của dân tộc nói chung.

Khi Chính phủ đặt mục tiêu tăng trưởng hai chữ số trong những năm tới, câu hỏi đặt ra không chỉ là Việt Nam sẽ có cơ hội gì trong những chuyển dịch mới mà liệu rằng lực lượng lao động có đủ kỹ năng để biến tham vọng thành hiện thực hay không.

“Cần phải đặt giáo dục vào đúng vị trí ưu tiên, bởi nếu chúng ta không có giáo dục đại học mạnh, thì chúng ta không thể nào có nguồn lực để phục vụ cho sự phát triển khoa học công nghệ và kinh tế được”, bà Bùi Thị Minh Hồng, Phó giáo sư về quản lý giáo dục tại Trường Quản lý, Đại học Bath, Vương quốc Anh, nhấn mạnh.

Giữa thế giới đầy phức tạp với các cuộc chiến về thương mại và công nghệ không biết điểm dừng, điều Việt Nam có thể làm là “chuẩn bị và phát triển nội lực để nắm bắt thời cơ”, bà Hồng phân tích tại hội thảo hồi cuối tháng 4.

Vốn con người và tăng trưởng kinh tế

Nhiều báo cáo và phân tích mô hình đều đưa ra cùng quan điểm rằng vốn con người có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn và dài hạn.

TS. Đoàn Ngọc Phúc, Trưởng khoa Kinh tế - Luật, Trường đại học Tài chính – Marketing, trong nghiên cứu công bố đầu năm nay đánh giá, việc đầu tư nhiều hơn vào vốn con người không chỉ làm tăng năng suất của vốn vật chất mà còn cải thiện chất lượng thể chế, gia tăng số lượng, chất lượng của đổi mới công nghệ.

Chất lượng vốn nhân lực tốt hơn có thể xây dựng các chính sách tốt hơn để thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế trong cả ngắn và dài hạn.

Vốn con người có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn và dài hạn. Ảnh: Hoàng Anh

Vốn con người có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn và dài hạn. Ảnh: Hoàng Anh

Nghiên cứu sâu hơn với tác động từ chính sách y tế, TS. Lê Trang Nhung tại Trường Đại học Thương Mại, cho rằng, tỷ lệ chi tiêu cho y tế có tác động tích cực đến kinh tế, nghĩa là tăng chi tiêu cho y tế sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Người lao động cần có sức khỏe tốt để học tập, hấp thụ tri thức nâng cao trình độ, từ đó tăng thời gian lao động, giảm thời gian chữa bệnh, góp phần duy trì mức tăng trưởng bền vững và lâu dài.

Mặt khác, khi sức khỏe của lực lượng lao động tăng lên, độ tuổi có thể lao động cũng tăng lên, giúp giảm nguy cơ thiếu lao động do tỷ lệ sinh thấp.

“Đầu tư vào y tế giúp cải thiện sức khỏe và năng suất lao động, trong khi việc gia tăng lực lượng lao động mà không đi kèm nâng cao chất lượng có thể không thúc đẩy tăng trưởng kinh tế như mong đợi”, bà Nhung phân tích trong nghiên cứu công bố giữa tháng 5 vừa qua.

Trước đó, các chuyên gia của Ngân hàng Thế giới đã ghi nhận mối liên hệ giữa giáo dục đại học và trình độ phát triển kinh tế xã hội cả một quốc gia thông qua việc đào tạo lực lượng lao động có trình độ cao và khả năng thích ứng; tạo ra kiến thức mới thông qua nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng; và thúc đẩy đổi mới thông qua việc áp dụng kiến thức được tạo ra và ứng dụng công nghệ.

Sự tiến bộ của các nền kinh tế Đông Á trong những năm gần đây là minh chứng cho mối quan hệ cộng sinh mạnh mẽ giữa giáo dục đại học, đổi mới sáng tạo và tăng trưởng thông qua nghiên cứu và phát triển kỹ năng.

“Việt Nam cần lực lượng lao động có trình độ để hiện thực hóa mục tiêu trở thành quốc gia có thu nhập trung bình cao vào năm 2035”, các chuyên gia của Ngân hàng Thế giới nhấn mạnh trong đánh giá về giáo dục đại học của Việt Nam.

Lộ trình phát triển thịnh vượng của Việt Nam đến năm 2045 đòi hỏi việc tăng năng suất lao động không ngừng thông qua nguồn vốn con người có chất lượng cao hơn.

Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam thời điểm 2020 tương đương mức tăng trưởng của Hàn Quốc ba thập niên trước. Kinh nghiệm của Hàn Quốc trong 30 năm đó cho thấy, Việt Nam cần nâng cao tiếp cận chất lượng và tính thực tiễn của chương trình đào tạo tại các cơ sở giáo dục đại học để từ đó có thể góp phần tăng trưởng kinh tế đất nước.

Các xu hướng lớn, quan trọng nhất trên toàn cầu và trong nước đang đặt ra thách thức đối với tham vọng phát triển của Việt Nam nhưng đồng thời, cũng tạo cơ hội cho Việt Nam sử dụng hệ thống giáo dục đại học như nền tảng căn bản để chuyển đổi, nâng cao chất lượng của lực lượng lao động và tính thực tiễn của nghiên cứu và chuyển giao công nghệ.

Theo Ngân hàng Thế giới, tiến bộ kỹ thuật nhanh chóng và sự phát triển của nền kinh tế tri thức làm tăng nhu cầu về kỹ năng tư duy, nhận thức bậc cao, kỹ năng số và cảm xúc xã hội cần thiết cho các công việc có hàm lượng tri thức cao.

Cùng với đó, sự trỗi dậy của tầng lớp trung lưu, quá trình đô thị hóa và già hóa dân số có thể gia tăng nguyện vọng đối với giáo dục đại học của sinh viên Việt Nam và gia đình.

Độ vênh trên thực tế

Mặc dù có nhiều tiến bộ so với trước đây, các chuyên gia của Ngân hàng Thế giới đánh giá, thành tựu của hệ thống giáo dục đại học của Việt Nam hiện đang chưa thực sự tương xứng với những kết quả nổi bật về tăng trưởng kinh tế công bằng và phát triển con người.

Theo Chỉ số vốn nhân lực của Ngân hàng Thế giới (HCI), Việt Nam xếp hạng 48 trên 157 quốc gia, cao nhất trong số các quốc gia có thu nhập trung bình vào thời điểm 2020.

Tuy nhiên, hệ thống giáo dục đại học của Việt Nam chưa sẵn sàng để khai thác tiềm năng to lớn từ nền tảng giáo dục phổ thông. Mức độ tiếp cận giáo dục đại học của Việt Nam, được đo bằng tổng tỷ lệ nhập học (GER) của sinh viên, là dưới 30% vào năm 2020, thuộc hàng thấp nhất trong số các quốc gia Đông Á. Kết quả đầu ra của giáo dục đại học, đo bằng tổng tỷ lệ tốt nghiệp (GGR), chỉ ở mức 19%, thấp hơn nhiều so với kỳ vọng.

Nâng cao tính thực tiễn của chương trình đào tạo tại giáo dục đại học có thể góp phần tăng trưởng kinh tế. Ảnh: UEH

Nâng cao tính thực tiễn của chương trình đào tạo tại giáo dục đại học có thể góp phần tăng trưởng kinh tế. Ảnh: UEH

Bên cạnh đó, việc thiếu hụt kỹ năng, kinh nghiệm của đối tượng sinh viên sau khi tốt nghiệp đại học khiến thị trường việc làm “thừa thầy thiếu thợ”.

Nhiều nhà tuyển dụng cho biết yếu tố thiếu kinh nghiệm liên quan là lý do chính khiến ứng viên bị loại, theo báo cáo giữa tháng 8 vừa qua của Robert Walters Việt Nam.

Đa phần doanh nghiệp cho biết thêm họ đang nhận “nhiều hồ sơ hơn nhưng không đạt tiêu chí”, khiến quy trình tuyển dụng bị chậm.

Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng vừa thừa vừa thiếu nhân lực, theo nhóm nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới vào giữa năm ngoái, là các trường đại học và cơ sở đào tạo chưa thực chất chuẩn bị để người lao động tương lai tham gia các vị trí việc làm.

Bằng chứng cho thấy, 80% tổ chức đào tạo được hỏi cho rằng sinh viên tốt nghiệp đã được chuẩn bị đầy đủ cho các vị trí công việc ban đầu. Tuy nhiên, chưa đến 40% đơn vị sử dụng lao động cho biết sinh viên mới tốt nghiệp đã sẵn sàng, nhất là cho các vị trí việc làm đòi hỏi kỹ năng cao.

Theo Chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu năm 2021, Việt Nam chỉ đứng nhóm cuối về kỹ năng phù hợp với ngành nghề của người tốt nghiệp đại học.

Một báo cáo khác của Ngân hàng Thế giới năm 2020 chỉ ra rằng, chương trình giảng dạy và phương pháp sư phạm truyền thống, hạ tầng công nghệ thông tin kém phát triển, và những bất cập trong quản trị nhân tài tại các cơ sở giáo dục đại học được xác định là các nguyên nhân chính dẫn đến chất lượng và tính thực tiễn thấp của chương trình đào tạo.

Đơn cử, công tác biên soạn giáo trình vẫn tiếp tục đi theo phương pháp tiếp cận truyền thống dựa trên nội dung, tập trung vào truyền tải kiến thức lý thuyết thay vì tập trung phát triển kỹ năng, năng lực mà thị trường lao động yêu cầu.

Tương tự, các cơ sở giáo dục đại học cũng đặt trọng tâm vào giảng viên và bài giảng hơn là chú trọng vào sinh viên và quá trình phát triển kỹ năng của các sinh viên này.

Mối liên kết lỏng lẻo với các nhà tuyển dụng trong việc thiết kế, điều chỉnh chương trình đào tạo, phát triển các chương trình đào tạo/thực tập dựa trên thực tế tại nơi làm việc cũng cản trở giáo dục đại học nâng cao chất lượng và tính thực tiễn.

Ông Hoàng Thanh Chương, Giám đốc Dịch vụ tuyển dụng của Adecco Việt Nam cho biết, trong quý III/2025 này, các doanh nghiệp sẽ ưu tiên những ứng viên có chuyên môn tốt, am hiểu luật và linh hoạt trong vận hành.

Theo ông, các vị trí then chốt vẫn được chú trọng tuyển dụng, với yêu cầu cao hơn về các kỹ năng đáp ứng xu hướng tương lai, khả năng thích ứng và tính tuân thủ.

Con đường nào cho Việt Nam?

Việt Nam đang đặt mục tiêu tăng trưởng GDP cao, ít nhất là 8% trong năm nay và khát vọng tăng trưởng GDP hai con số trong giai đoạn 2026 – 2030 nhằm hiện thực hóa mục tiêu tổng quát đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao.

Theo đó, Việt Nam cần phát triển nguồn nhân lực tầm vùng, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, Đại học Kinh tế quốc dân (NEU) nhấn mạnh trong kiến nghị hồi tháng 7.

Chính phủ cần phối hợp với các địa phương xây dựng các trung tâm đào tạo nhân lực cấp vùng (đại học, cao đẳng nghề trọng điểm) với cơ sở vật chất và chương trình đào tạo đạt chuẩn quốc gia/quốc tế.

Không chỉ vậy, giáo dục đại học trở lên được chuyên môn hóa cho các đại học quốc gia, đại học vùng bởi nguồn lao động chất lượng cao có thể di chuyển dễ dàng giữa những địa phương lân cận với nhau để tham gia các hoạt động kinh tế, đáp ứng yêu cầu nhân lực chất lượng cao cho các doanh nghiệp FDI.

Theo NEU, cần đẩy mạnh đào tạo theo nhu cầu của xã hội, gắn kết đào tạo với nhu cầu doanh nghiệp; nâng cao năng suất, chất lượng hoạt động khoa học và công nghệ trong các cơ sở giáo dục - đào tạo.

Một số ngành ưu tiên phát triển cần có cơ chế hỗ trợ đào tạo. Với một số ngành kinh tế quan trọng, mới nổi như vi mạch bán dẫn, AI, cần có chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài trong và ngoài nước.

Bên cạnh đó, cần phát triển các trung tâm đào tạo nghề liên tỉnh gắn với thế mạnh kinh tế, lợi thế so sánh của vùng; khuyến khích thiết lập các sàn giao dịch việc làm và thông tin thị trường lao động cấp vùng, kết nối cung-cầu lao động giữa các địa phương trong vùng.

Chính quyền các địa phương nội vùng cần tạo môi trường thuận lợi khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư đào tạo nghề cho người lao động trong doanh nghiệp, có cơ chế khuyến khích người lao động phát huy trí tuệ, tham gia nghiên cứu và mạnh dạn đề xuất các giải pháp cải tiến kỹ thuật.

Để giảm sự lệch pha giữa mong muốn của người lao động và yêu cầu của các ngành nghề tăng trưởng cao, nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới năm 2023 chỉ ra nhu cầu đầu tư vào giáo dục và đạo tạo, tập trung vào các ngành nghề tăng trưởng cao và những kỹ năng có nhu cầu, bao gồm cải thiện về dịch vụ định hướng nghề nghiệp.

Ngoài ra, một nhu cầu nữa là tăng cường khả năng tiếp cận thông tin cập nhật và thân thiện với người dùng về thị trường lao động bên cạnh những can thiệp nhằm định hướng người lao động sang những lĩnh vực ngành nghề đang tăng trưởng.

Một vấn đề quan trọng cần giải quyết là đầu tư cho giáo dục. Ngân sách cho giáo dục năm 2025 ước tính gần 500 nghìn tỷ đồng, chưa đạt 1/5 tổng chi theo quy định, Thứ trưởng Bộ Tài chính Bùi Văn Khắng cho biết tại Hội nghị Tổng kết năm học 2024 – 2025 ngày 22/8 vừa qua. Cùng với đó, tình trạng giải ngân chậm diễn ra ở nhiều bộ, ngành, địa phương.

Bộ Tài chính yêu cầu các địa phương bố trí tối thiểu 5% tổng thu ngân sách cho giáo dục, trong khi các cơ sở đại học phải dành ít nhất 3% để tái đầu tư.

Việc đảm bảo ngân sách là điều kiện tiên quyết để xây dựng cơ sở hạ tầng trường lớp, mua sắm thiết bị và tuyển dụng giáo viên, qua đó tạo động lực cho các địa phương hoàn thành nhiệm vụ đổi mới giáo dục trong bối cảnh mới.

Một số ngành ưu tiên phát triển cần có cơ chế hỗ trợ đào tạo. Ảnh: Phenikaa

Một số ngành ưu tiên phát triển cần có cơ chế hỗ trợ đào tạo. Ảnh: Phenikaa

Theo bà Hồng từ Đại học Bath, Vương quốc Anh, có hai mô hình tốt và gần mà Việt Nam có thể học tập, đó là bài học của Trung Quốc và Singapore.

“Việt Nam có 40 năm dân số vàng nhưng dường như chúng ta đã bỏ lỡ mất 20 năm, vậy 20 năm nữa làm thế nào? Chúng ta nhìn sang Trung Quốc và Singapore – hai nước đã phát triển thành những trung tâm giáo dục đại học hàng đầu để đào tạo và thu hút nhân tài, phục vụ cho sự phát triển của chính họ”, bà Hồng trăn trở.

Thông tin từ Trung tâm Nghiên cứu chiến lược và quốc tế (CSIS) cho biết, việc đầu tư ngày càng tăng vào hệ thống giáo dục đại học đã thúc đẩy năng suất nghiên cứu tại các trường đại học hàng đầu Trung Quốc và nâng cao thứ hạng toàn cầu. Trong giai đoạn 2012 – 2021, Bộ Giáo dục Trung Quốc đã tăng chi tiêu cho giáo dục đại học từ 24 tỷ USD lên 47 tỷ USD.

Đầu tư ngày càng tăng vào giáo dục đại học cũng tạo ra những con đường để thúc đẩy các bộ kỹ năng cụ thể đang có nhu cầu, đặc biệt là trong lĩnh vực STEM (Khoa học, Công nghệ, Kỹ thuật và Toán học).

Để thúc đẩy mục tiêu trở thành cường quốc khoa học và công nghệ vào năm 2049, Bắc Kinh đã dành nguồn lực và hỗ trợ đáng kể cho các sáng kiến nhằm thu hút và đảm bảo bồi dưỡng nhân tài trong lĩnh vực khoa học và công nghệ. Theo Cục Thống kê của nước này, 430 tỷ USD, tương đương 2,54% GDP của Trung Quốc, đã được chính phủ đầu tư vào R&D vào năm 2022, tăng 10% so với năm trước.

Con số này khiến Trung Quốc trở thành quốc gia chi tiêu lớn thứ hai cho R&D trên thế giới.

Khả năng giữ chân nhân tài trong nước và thu hút chuyên gia nước ngoài của Trung Quốc là một yếu tố quan trọng khác để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, CISI cho hay.

Bên cạnh đó, bồi dưỡng chuyên môn và kiến thức của chính người dân Trung Quốc cũng đóng vai trò quan trọng trong tầm nhìn của nước này về một nguồn nhân lực có tính cạnh tranh cao.

Thông qua hơn 200 sáng kiến tuyển dụng nhân tài, bao gồm Chương trình Ngàn nhân tài và Ngàn nhân tài trẻ, Bắc Kinh đã tìm cách giữ chân sinh viên đại học và lao động lành nghề Trung Quốc thông qua các ưu đãi kinh tế, đồng thời biến đất nước thành một nguồn hấp dẫn cho sự hợp tác học thuật và chuyên môn từ nước ngoài.

Đến năm 2018, chương trình Ngàn Nhân tài đã thu hút gần 7.000 chuyên gia đến làm việc tại các học viện và viện nghiên cứu của Trung Quốc.

Với Singapore, ngay từ khi mới giành độc lập, chính phủ nước này đã giành một khoản tiền lớn khoảng 10 – 15% ngân sách nhà nước cho đầu tư giáo dục, TS. Lê Thị Anh Đào, Trường đại học Khoa học, Đại học Huế, dẫn số liệu trong nghiên cứu năm 2023.

Theo bà Đào, điểm mấu chốt làm nên thành công của nền giáo dục Singapore là nước này đã xây dựng được một chiến lược phát triển giáo dục đón đầu xu thế hội nhập và phát triển kinh tế tri thức.

Singapore đã tập trung thực hiện những cải cách quan trọng về quan niệm, mô hình giáo dục và chương trình đào tạo như thay đổi quan niệm về giáo dục với khẩu hiệu “Nhà trường tư duy, quốc gia học tập”; Xây dựng và triển khai mô hình “Dạy ít, học nhiều”.

Để đáp ứng nhu cầu của quá trình công nghiệp hóa diễn ra nhanh chóng, Singapore đã tăng cường đào tạo về kĩ thuật và công nhân lành nghề, do đó các khóa học về máy móc, quản trị kinh doanh, kế toán cũng được ngày càng coi trọng.

Singapore cũng được đánh giá là quốc gia có chính sách tuyển chọn, thu hút, trọng dụng nhân tài bài bản và chuyên nghiệp nhất thế giới. Quan điểm tuyển chọn nhân tài của Singapore rất rõ ràng: Đáng tin cậy, có thực tài, trung thực, liêm khiết chứ không phải ở vẻ bề ngoài hay quan hệ cá nhân, thậm chí là những lời nịnh hót. Singapore đã từng đưa ra khẩu hiệu“để người có thực tài điều hành công việc”.

Từ kinh nghiệm của Singapore, bà Đào khuyến nghị, Việt Nam có thể học hỏi và hướng vào giải quyết các vấn đề như tăng đầu tư cho giáo dục đào tạo (cơ sở hạ tầng, phương tiện kĩ thuật) để giáo dục – đào tạo thực sự được hưởng đúng vị thế là một trong những quốc sách hàng đầu.

Bên cạnh đó, cần có chính sách công bằng trong giáo dục, thực hiện xã hội hóa giáo dục – đào tạo để mọi người đều có cơ hội học tập suốt đời.

Bà Đào đề xuất, Việt Nam cũng cần quan tâm tới tuyển dụng nhân tài minh bạch, công bằng trong các cơ quan nhà nước, doanh nghiệp nhằm khuyến khích, tận dụng được đội ngũ có trình độ, chuyên môn, đảm bảo tính trong sạch của bộ máy nhà nước, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội.

“Chúng ta bây giờ cần phải phát triển nội lực, không chỉ chuẩn bị cho các 'cuộc chiến' đang diễn ra, mà còn cho sự phát triển đất nước về lâu dài. Hy vọng chúng ta sẽ có những quyết sách để chuẩn bị nội lực dài hơi hơn, để chúng ta có thể tự phát triển nhân tài”, bà Hồng nhấn mạnh.

***

Bài viết thuộc chuyên đề "Từ Độc lập đến Thịnh vượng" do TheLEADER triển khai nhân kỷ niệm 80 năm Quốc khánh 2/9.

Kiều Mai

Nguồn Nhà Quản Trị: https://theleader.vn/von-con-nguoi--yeu-to-quyet-dinh-muc-tieu-tang-truong-hai-chu-so-cua-viet-nam-d41748.html