Uông Thái Biểu - ngọn gió lãng du
Cách đây vài năm, khi đọc tác phẩm 'Gió thổi từ miền ký ức' của nhà báo Uông Thái Biểu, tôi đã bị cuốn hút bởi lối văn chương trữ tình, giàu suy niệm, ngôn từ mỹ cảm đẹp như thơ. Rồi gặp cái tên anh nhiều hơn trong quá trình tìm kiếm tư liệu về Tây Nguyên, về văn hóa dân gian, về những vùng đất trải theo chiều dài đất nước. Sau đọc tập thơ 'Nhớ núi' tôi mới biết không chỉ làm báo, viết văn, biên kịch, anh còn là một hồn thơ đa cảm.

Nhà báo Uông Thái Biểu tại khu nghĩa địa làng Plei Pyang, tỉnh Gia Lai
Tôi nghĩ rằng, để có thứ văn chương vừa đẹp vừa sâu vừa neo lại giá trị qua dòng chảy thời gian, đòi hỏi người viết phải dụng công, dụng tâm, tìm tòi học hỏi, khát khao khám phá và cảm nhận bằng cả trí óc lẫn con tim. Uông Thái Biểu là một người viết như thế. Anh được độc giả, công chúng biết đến với vai trò là nhà báo, nhà thơ, nhà biên kịch. Dù ở lĩnh vực nào, Uông Thái Biểu đều để lại dấu ấn trong hành trình đi cùng con chữ của mình.
• HÀNH TRÌNH TRẢI NGHIỆM MẠCH NGUỒN VĂN HÓA
Uông Thái Biểu viết nhiều đề tài khác nhau về văn hóa, lịch sử, con người… Với anh, “Một nụ hoa mà ta chưa biết tên nở trên miền đất lạ. Một dòng sông lần đầu được lội chân qua. Một di tích, danh thắng, một câu chuyện dân gian, một điệu hát cổ… Chỉ là vậy, nhưng chính là những điều khác biệt, cái khác biệt làm nên bản sắc. Người làm báo đi rồi sẽ đến. Đến rồi cảm nhận và hứng thú bởi những điều trải nghiệm và khám phá” (Những thanh âm đồng vọng).
Mỗi điểm dừng chân, Uông Thái Biểu đều cho người đọc những kiến giải sâu xa từ quá trình mở đất, về chặng đường đã qua, không phải là những dữ liệu những con số khô cứng mà là cả câu chuyện, cả tiến trình lịch sử được dẫn dắt khéo léo và sinh động. Đó là vùng đất Phú Gia, “nơi vị vua thiếu niên yêu nước Hàm Nghi cùng những tướng sĩ thuộc phái chủ chiến lập phòng tuyến chống lại quân xâm lược, nơi hơn thế kỷ qua vẫn bao phủ màn sương huyền thoại” (Chuyện cũ đất Phú Gia). Đó là xứ Tiên Điền, nơi “ẩn sĩ Tố Như phe phẩy quạt điều hóng gió Lam Giang” (Trước bên Giang Đình). Đó là Phú Thọ, đất Tổ của người dân Việt, “Ta đi tìm cái thực trong mơ. Ta dẫm chân trên tảng nền đất Tổ nhưng tâm ta được hòa trong khói hương nhiệm mầu huyền thoại” (Hướng về đất Tổ). Đó là Ký ức thành Vinh, là Hải Vân Quan dưới trời mây trắng, là Bên dòng sông giới tuyến… Đó còn là cuộc gặp với những “báu vật sống” dân gian, là Đào nương ở đất ca trù, là nghệ nhân chèo Khuốc, là liền anh liền chị Quan họ Bắc Ninh, là hát xẩm Hà thành... Lần theo dấu chân tác giả, tôi nhìn thấy bóng dáng một kẻ du ca giăng mắc nỗi nhớ nhung ngày tháng cũ, lặn lội đi tìm để hát lên những khúc ca xưa còn lưu lại giữa vầng ánh sáng hiện đại.
Nói về chuyện cũ người xưa, Uông Thái Biểu dựng lên một không gian nhuốm màu hoài cổ, “Cảnh vật khỏa khuây, nắng hè vừa độ chí trên đầu. Đâu cảnh đoàn viên, đâu sân hòe quế! Những rêu phong phủ trên nền gạch cũ nâng bước chân tôi trở về cõi xa xưa” (Trước bên Giang Đình). “Ngàn Hống cao xanh còn in dáng ngạo nghễ của Uy viễn Tướng công nhong nhong yên ngựa hát khúc tiêu dao ca ngợi ngàn thông đứng thẳng. Lam Giang lộng gió đẩy thuyền trăng còn đó bóng Tố Như…” (Đào nương ở đất ca trù). “Lá bàng đỏ rơi thảng thốt trước con đường nhuốm màu heo may dọc chiều sâu của phố. Xúc cảm riêng tư ăm ắp dâng trào trong bảng lảng hoàng hôn” (Phố xưa, người cũ)... Văn phong của anh bất giác khiến tôi nghĩ đến những người kể chuyện thời xưa, thuộc làu kinh sử, bằng ngôn ngữ của mình biến những câu chuyện tưởng chừng quen thuộc trở nên hấp dẫn ly kỳ.
Tuy nhiên, không chỉ có hoài niệm, Uông Thái Biểu còn bày tỏ nỗi niềm suy tư về những biến cải đổi dời ở hiện tại, góp tiếng nói của một người khát khao gìn giữ những giá trị cha ông để lại. “Tôi chợt liên tưởng đến một ngày nào đó, bên gốc đa làng tôi mọc lên một cái siêu thị mang tên Cora hay Plaza. Và lúc đó, không biết có còn không gian nào cho câu ca dao tình tứ, quê mùa” (Chợ quê, một đốm lửa thiêng). “Đứng chênh vênh trên mép đèo ngắm Hải Vân quan mà một nỗi buồn lan tỏa. Trong khi chưa có lời ngã ngũ cho quyết định ai chịu trách nhiệm thì mưa nắng, bão tố vẫn qua nơi này” (Hải Vân quan dưới trời mây trắng). Tiếng vọng của tác giả đã có hồi đáp khi mà danh thắng này đã được trùng tu, trả về dáng vẻ sừng sững vốn có.
Uông Thái Biểu lưu dấu chân khá nhiều trên mảnh đất Tây Nguyên, nơi anh gắn bó từ hơn ba thập niên trước. Trong quá trình làm báo, anh vén mở nhiều lớp màn bí ẩn giữa đại ngàn hùng vĩ, hé lộ những vỉa tầng văn hóa đặc sắc của những tộc người miền thượng. Uông Thái Biểu dẫn lời cố GS Phạm Đức Dương - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Đông Nam Á để lý giải cho hành trình khám phá của mình: “Cháu sống và làm nghề viết ở Tây Nguyên, nếu không ít nhiều hiểu biết về lịch sử, văn hóa, căn tính người bản địa thì bài viết sẽ nhạt nhẽo, đi bên rìa, không thể cung cấp cho người đọc những lớp trầm tích thú vị bên trong” (Những người gieo cảm hứng).
Uông Thái Biểu đến với đồng bào để hiểu về họ, để kể chuyện với tư cách là người trong cuộc chứ không bằng con mắt của một khách nhàn du. Đó là những lần Về buôn chơi Tết, “Trong văn hóa các dân tộc thiểu số bản địa Tây Nguyên, Tết cổ truyền của họ chính là những nghi lễ nông nghiệp, nghi lễ vòng đời và những ngày lễ hội cổ truyền mang sắc màu văn hóa tộc người”. Đó là những khi ăn ngủ cùng đồng bào để nghiệm ra mối liên hệ quấn quyện giữa Ngọn lửa và tiếng chiêng, “Ngọn lửa nuôi tiếng chiêng. Chiêng cũng chỉ có thể hồn nhiên tự tình, chuyển tải thông điệp thiêng liêng bên lửa. Lửa sẽ tắt khi tiễn hồn chiêng, chiêng bặt tiếng khi chiêng mất lửa”. Để hiểu về văn hóa nhà dài, “Ngày xưa cả buôn hàng trăm người chỉ có dăm bảy nhà dài, mỗi nhà có khi là cả một đại gia đình, thậm chí là cả dòng họ lên tới hàng trăm người cùng ở. Trong mỗi nhà dài có tới cả chục bếp, tức cả chục tiểu gia đình cùng sinh sống” (Còn đâu bếp lửa nhà dài).
Nhờ gắn bó với đồng bào mà Uông Thái Biểu đem đến cho độc giả nhiều điều thú vị về căn tính của các tộc người, về những đôi chân trần, về những mùa đi, về cái chất phiêu lãng trong con người họ; về âm nhạc của người Tây Nguyên, “Tây Nguyên không hú hét, gầm gào. Tây Nguyên không bốc lửa hừng hực như nhiều người nhầm tưởng. Lửa trong âm nhạc Tây Nguyên là ngọn lửa cháy tự tâm can, cháy tự dòng chảy văn hóa âm thầm mà mạnh liệt. Âm nhạc Tây Nguyên đương đại nối cảm hứng từ những lối hát dân ca Ayray, Kưứt, Lảhlông, Yallyau… Ở trong đó là cả một thế giới của đắm đuối, dịu dàng, thẳm sâu, hoang dã; của nỗi buồn hoang hoải nhưng trong lành như suối, như thác” (Như chim Phí bay về cội nguồn). Anh cũng hé lộ nhiều điều đã lùi về dĩ vãng nay chỉ còn lưu lại dấu vết nhạt nhòa. Rằng tổ tiên của người Churu giữa đại ngàn ngày nay có thể là người hoàng tộc Chăm khi xưa (Phiêu lãng Churu). Rằng người Chăm từng là chủ nhân của đại dương, “từng đóng thuyền to để thực hiện những hải trình đến Thái Lan, Khmer, Java…để sáng tạo nên kiến trúc kỳ vĩ của mình với rất nhiều phong cách” (Tản mạn miền Chăm)...
• NỖI ÁM ẢNH LÀNG QUÊ
Trong bài tùy bút Thăm thẳm hồn quê, Uông Thái Biểu có nhắc đến câu nói của NSND Trần Văn Thủy, “nếu đi hết biển… cứ đi mãi đi mãi rồi sẽ về đến… làng mình”. Có lẽ anh mượn ý của vị đạo diễn tài hoa để nói về chính mình. Qua những trang viết, anh dẫn dắt người đọc khám phá nhiều vùng đất mà anh đặt chân đến, từ Nam chí Bắc, từ Đông sang Tây, nhưng xúc cảm nhất, sâu nặng nhất, tôi cảm nhận vẫn là ở xứ Nghệ quê anh. Nơi đó ngoài đưa người đọc khám phá hành trình văn hóa lịch sử, nét đẹp của đất của người, còn chứa đựng nỗi nhớ da diết về ngày xưa, về người thân bạn bè, về tuổi thơ lam lũ hồn nhiên. “Trải bao ngọt bùi, cay đắng giữa dòng đời xuôi ngược, mỗi khuya tỉnh giấc vẫn nhớ đến nao lòng một tiếng chim đỗ quyên khắc khoải giữa rừng bần khi con nước hạ triều. Ký ức của tôi là những cánh rừng giữa đầm lầy ngằn ngặt lá xanh, triền miên hoa tím. Đêm thị thành vẫn không nguôi nhớ âm thanh những bàn chân trần úp đất rộn ràng quãng đường đê trước mặt” (Ký ức gió). Làng quê là nỗi ám ảnh của anh, khi mà “nghĩ và viết mãi mà không thoát ra được khỏi cái không gian vừa rộng vừa sâu của làng quê đầy ăm ắp đã tồn tại và mãi tồn tại trong tâm hồn” (Gã trai nhà quê khoác tấm áo thị thành - Nhà văn Phong Điệp trao đổi với Uông Thái Biểu).
Trong nỗi nhớ quê thì dòng sông Lam hiện lên da diết, sinh động, có hồn như một thực thể đầy nhân tính. “Tôi cũng hằng đêm nhớ về dòng Lam quê tôi như gửi gắm về nơi lắng sâu nhất trong tâm hồn. Sông Lam trong tôi cũng là hình ảnh của người đàn bà, nhưng là người đàn bà sinh nở sau những quằn quại của nỗi đau thân xác” (Dòng sông hát). “Dòng sông hiền hòa ngọt như sữa mẹ đã ôm ấp, thoa dịu, làm lành” (Khúc đồng dao thơ ấu).
Đọc con chữ của Uông Thái Biểu, dễ nhận thấy anh nói nhiều về gió. Nhiều như thể chính anh là gió. Ngọn gió với muôn dạng hình hài. Ngọn gió man mác nỗi niềm sâu kín. Ngọn gió miên man từ dĩ vãng. Ngọn gió lãng du giữa đại ngàn thăm thẳm. Ngọn gió ngọt lành thổi từ đất Nghệ sông Lam. “Gió thổi như khát khao ngàn đời nay được thổi. Gió nằng nặng trên mình những gian lao trong hành trình của những ráng phù sa ngầu đỏ xuôi về từ đại ngàn xa thẳm. Gió ngai ngái mùi bùn non chắt chiu từ đời sống phồn sinh. Gió vờn theo tiếng chim lạc bầy khắc khoải cuối khuya” (Mùa hoa bần năm cũ). “Gió lau khô dòng nước mắt cho những thân phận tủi hờn. Gió thoa dịu nỗi âu lo. Gió ru em bé vào giấc. Gió đưa linh người già. Những ngọn gió của chia sẻ và thông cảm” (Dòng sông hát). “Tây Nguyên, những tháng gió. Những cơn gió trở mình không vật vã, không bùng lên thành những trận cuồng phong, không làm tơi tả cỏ cây. Những cơn gió không rít gầm như bão tố ở miền duyên hải. Gió thổi dài qua núi, qua đồi, qua sông, qua thác chỉ đủ lan tỏa lên mặt đất tất cả những chất chứa ngàn năm trong lồng ngực đại ngàn sâu thẳm. Những cơn gió hoang dại và phóng túng” (Mùa đi). Trong bốn tập sách của mình, đến phân nửa chủ đề lấy cảm hứng từ gió, tập thơ “Gió đồng” và quyển tùy bút, tản văn “Gió thổi từ miền ký ức”.
* * *
Với hành trình 35 năm làm báo chuyên nghiệp, Uông Thái Biểu đã đi nhiều nơi, gặp gỡ nhiều người, nhiều thân phận, nhiều mảnh đời và thể hiện bằng vô số bài viết sinh động. Con chữ không chỉ mang tính chất báo chí thông thường mà thấm đẫm hồn cốt, suy tư cùng những biện giải sâu xa. Với vai trò nhà báo, Uông Thái Biểu làm nhiều việc, viết nhiều lĩnh vực, đa dạng đề tài, nhưng văn hóa là mảnh đất cho anh niềm cảm hứng bất tận và để lại dấu ấn sâu sắc. Anh nói, người viết báo, xác định được “kim chỉ nam” cho ngòi bút của mình là điều rất quan trọng, với anh đó chính là hành trình trải nghiệm văn hóa. “Dù ở nơi nào trên đất nước này, lịch sử và văn hóa luôn là hấp lực và cũng là chất men tạo nên bút lực”, Nhà văn, nhà báo, dịch giả Phan Quang đã nói về anh, “Cái níu giữ hồn người đọc là tinh anh văn hóa, là cái thần toát lên từ cảnh quan nơi ta đến, ở con người tình cờ ta gặp. Uông Thái Biểu không tự bằng lòng với cái nhìn thấy trước mắt. Anh cố tìm cái hồn văn hóa lẩn khuất đâu đây. Những điều chưa tận tường hoặc muốn tường tận hơn, với tư cách nhà báo, anh cậy tới các học giả, các văn nghệ sĩ, các nghệ nhân qua những cuộc trao đổi. Văn hóa là sức hấp dẫn, mà cũng là cái đền đáp công sức từ những chuyến đi, những lần gặp gỡ của Uông Thái Biểu…”.