Say đắm ning nơng
Một sáng mùa xuân lất phất mưa, tôi có chuyến công tác về xã Đak Song (huyện Kông Chro, tỉnh Gia Lai). Từ phòng làm việc của UBND xã, tôi nghe tiếng chiêng xa gần, trầm bổng. Nhẩm tính, cũng đến mùa ăn tháng uống ngày, say đắm pơ thi trên cao nguyên bazan: mùa ning nơng, nên tôi cất bước tìm đến.
Hồi nhỏ, tôi đã từng được dự nhiều lễ hội có cồng chiêng mê mải. Nhà ba mẹ tôi nằm lẫn giữa làng của những người dân tộc thiểu số gần Vườn Quốc gia Kon Ka Kinh. Tôi nhớ những ngôi nhà rông mái tranh cao thừng thững, giữa làng. Sáng sớm đi vào làng đổi rau với mẹ tôi còn gặp những thanh niên người Bahnar đầu rối bù xù, quấn chăn đi về từ nhà rông. Ban đêm, trai tráng đốt lửa rồi ngủ cùng nhau ở đó. Tôi nhớ những đêm chiêng ngân trầm bổng. Một đêm nghe tiếng chiêng buồn, sớm mai những chị người Bahnar đi ngang qua nhà. Váy họ còn ướt đẫm sương mai, trên gùi cõng những mớ cỏ tranh dài là biết làng mới có người chết. Họ cắt tranh về lợp nhà mồ.
Nhà mồ, nơi chốn linh thiêng nằm phía sau làng. Thuở nhỏ, chúng tôi rất sợ khi đi chăn bò ở gần khu nhà mả. Lâu ngày nó hoang tàn, đổ nát, thi thoảng chúng tôi còn bị sụt chân xuống những chiếc ghè vỡ do gia chủ lấp vội chia của cho người chết. Ký ức đấy theo tôi rờn rợn mãi tận sau này. Tôi chưa bao giờ quên mình lớn lên trong tiếng chiêng vọng về ấy dù tôi chỉ hiểu bập bõm nền văn hóa thẳm sâu của họ. Cho đến khi nghe tiếng chiêng trong buổi sáng hôm nay, tôi hiểu mình phải đến đó, ngắm, nghe, thẩm để hòa mình vào không gian của lễ hội. Tôi không thể trở về khi chưa được vài phút hòa trong nhịp chiêng ngân.
Ảnh hưởng của dịch Covid-19, lễ hội chỉ có những người dân làng Bla quây quần bên nhau. Người Bahnar ở đây sống trong những ngôi nhà sàn có nhiều mái, thiết kế rộng và đẹp. Nhà rông lớn nhất nằm giữa làng, treo đầy những bảng tuyên truyền thông điệp 5K về phòng-chống dịch Covid-19. Làng nằm nem nép tựa vào hai trái núi đều nhau nhô lên. Núi rừng bao bọc làng giữa một thung lũng hẹp gió thổi vi vút những cây cổ thụ. Nhiều chiếc ghè lớn đã được uống hết nằm chỏng chơ với tên chủ hộ ghi ở mép ghè, bã mì lẫn với trấu được đổ thẳng ra gốc cây, chỉ cần ngửi mùi men cũng khiến khách lạ say nồng vấn vít dù hai lớp khẩu trang đã được che kín mũi. Nhiều người làng vây quanh ngồi ở những gốc cây già đổ bóng. Nhiều người đàn ông say khướt từ tối qua rồi ở lại nhà mả vui chơi, bây giờ đang ngủ ngay trên nền đất.
Tôi nhìn quanh, nhà mồ đẹp lắm, đóng ván vừa khít sơn đỏ với vài chiếc hoa văn bốn cánh trắng được vẽ mộc bởi họa sĩ của làng. Mái nhà cũng sơn màu với hoa văn hình thoi trắng đỏ. Những chiếc cột nhà được trang trí bằng các vòng tròn và tua vải sặc sỡ, giữa cột có những tấm ván được đẽo cong cong như sừng trâu chia đôi hai màu đỏ trắng. Một đống lửa đốt đêm qua đã lụi tàn. Hàng rào nhà mồ cũng được đóng ngay hàng thẳng lối hình vuông đan cài. Bó củi cạnh hàng rào, phía trên là nong nia, gùi, cuốc được chia cho người chết. Tôi chưa bao giờ được thấy ngôi nhà mả đẹp và sặc sỡ như vậy dù đã dự lễ pơ thi năm bảy lần. Dưới gầm nhà sàn của gia chủ cách đó vài chục bước chân bày la liệt đồ ăn, và ghè, những người phụ nữ cùng con họ đang trò chuyện bằng tiếng bản địa rồi chỉ trỏ vào hai người khách lạ là tôi và bạn đồng hành.
Người làng với người lạ chỉ qua vài cang rượu ghè là trở nên gần gũi. Cô trò của tôi tên Xoan, cũng là người làng kéo tay giới thiệu: “Đây là cô giáo của con”. Vậy là từ già làng, trưởng thôn, bí thư chi bộ đến bắt tay và mời tôi uống vài cang rượu ghè. Tôi nhờ Xoan nói giúp: “Vì dịch bệnh phức tạp nên tôi xin phép đeo khẩu trang, không ăn uống”. Họ gật gật đầu rồi mỉm cười bỏ qua. Chúng tôi hòa vào vòng xoang chếnh choáng cùng những người trẻ. Người say cứ say, người xoang cứ xoang.
Tôi nhớ, bình thường, mỗi lần dự pơ thi ở làng Kép (xã Ia Mơ Nông, huyện Chư Păh) phải đến hai hôm mới về. Tôi muốn thấy tận mắt nhà nhà chở nhau lên rừng gùi từng thớ gỗ rồi dùng rựa đẽo tượng ngay nhà mả. Họ cắt hàng trăm lá dầu to bản trải ra đất rồi bỏ lên đó những món cháo măng hay vỉa thịt nướng đãi bà con từ các làng khác đến. Họ xếp những dàn ghè dài, chở những can nước to để chêm vào ghè khi nước đầu tiên hút cạn. Tôi còn phải đợi đến khi những chàng trai trẻ bôi bùn đầy người, vẽ than đầy mặt hò hét theo tiếng trống chiêng đi lên từ dòng suối sau khu nhà mả, hòa mình với những chú hề, cùng với dân làng xoang ngược chiều mặt trời thì mới về lại nhà mình.
Vẫn biết, đời sống của người dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn, các lệ tục, hội hè tốn kém kéo dài phải cắt giảm hoặc xóa bỏ, nhưng với họ nếu người chết mà chưa được làm lễ pơ thi để người sống khóc người chết một lần cuối cùng thì coi như chưa trọn vẹn nghĩa tình. Vì vậy, có nhiều nhà, dù nghèo khó vẫn cố gắng vay mượn để làm được pơ thi cho những người đã khuất. Đối với tôi, một người sống ngoài cộng đồng, tập tục của người thiểu số mà vẫn bồn chồn khi nghe dàn chiêng 12 chiếc treo trên cây le đẹp được hai người khiêng đi vòng quanh nhà mả huống hồ gì người dân tộc thiểu số sống ở đây.
“Chúng ta không phải là họ và chúng ta không thể nào hiểu hết họ khi chúng ta không sống trọn vẹn trong đó”. Tôi nhớ lời thầy dạy môn Văn hóa cơ sở mười lăm năm trước từng trăn trở khi nhắc đến việc vắng dần những tập tục lễ hội của người dân tộc thiểu số. Với những người lang thang trong câu chữ như chúng tôi, những lần đi công tác về làng gặp lễ hội là niềm vui bất ngờ.
Nguồn Gia Lai: http://baogialai.com.vn/channel/742/202202/say-dam-ning-nong-5767940/