Nông nghiệp sinh thái – chìa khóa để ĐBSCL phát triển bền vững
Việt Nam đang cho thấy vai trò trong chuyển đổi nông nghiệp theo hướng sinh thái, bền vững khi đã đưa ra cam kết về phát thải ròng bằng '0' vào năm 2050, đồng thời giảm 30% phát thải khí nhà kính và khí mê tan vào năm 2030.
Việt Nam đang cho thấy vai trò trong chuyển đổi nông nghiệp theo hướng sinh thái, bền vững khi đã đưa ra cam kết về phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050, đồng thời giảm 30% phát thải khí nhà kính và khí mê tan vào năm 2030. Đây là những mục tiêu không chỉ thể hiện trách nhiệm quốc tế, mà còn phản ánh quyết tâm của Việt Nam trong việc xây dựng một nền nông nghiệp xanh, có khả năng chống chịu với biến đổi khí hậu.

Nông nghiệp sinh thái - Hành trình xanh của nông nghiệp Việt Nam.
Ông Vinod Ahuja, Trưởng đại diện Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc (FAO) tại Việt Nam khẳng định, tại Việt Nam nhiều mô hình được triển khai mang lại hiệu quả, mô hình lúa tôm, lúa sen, nông lâm kết hợp, đến các chương trình bảo tồn đa dạng sinh học và thích ứng dựa vào thiên nhiên. Điểm chung của các mô hình này là phát huy tri thức bản địa, lồng ghép khoa học hiện đại và thích ứng với từng vùng sinh thái cụ thể.
Ông Vinod Ahuja cũng đề xuất đưa tiêu chí nông nghiệp sinh thái và chế độ ăn lành mạnh vào chương trình mua sắm công, như bữa ăn học đường, dinh dưỡng học sinh, bữa trưa công sở. Đây được xem là hướng đi bền vững, vừa hỗ trợ tiêu thụ nông sản sạch, vừa thúc đẩy thay đổi hành vi tiêu dùng xanh.
“Chúng tôi thấy nhiều những cái sáng kiến, những mô hình triển vọng. Trên thực tế chúng ta nhìn thấy các hệ thống kết hợp canh tác lúa tôm, lúa sen, rồi những hệ thống nông lâm kết hợp kết hợp năng suất, đồng thời với bảo vệ đa dạng sinh học. Cách tiếp cận này chúng ta cũng đã thúc đẩy, đã phát huy tri thức cộng đồng, tri thức bản địa và chúng ta cũng có sự điều chỉnh cho phù hợp với bối cảnh và địa phương, điều kiện của địa phương”, ông Vinod Ahuja nhấn mạnh.

Nông nghiệp sinh thái không đơn thuần là một phương thức canh tác mới, mà là một cách tiếp cận phát triển toàn diện.
Hành trình phát triển nông nghiệp sinh thái tại Việt Nam không chỉ dừng lại ở nhận thức và mô hình thí điểm, mà đang tiến tới thể chế hóa thành định hướng chiến lược quốc gia về phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững. Các mô hình như lúa sen, lúa cá, tôm rừng, cà phê hữu cơ, nông lâm kết hợp đã chứng minh rằng nông nghiệp sinh thái không chỉ bảo vệ môi trường, mà còn tạo ra giá trị kinh tế và xã hội bền vững cho nông dân.
Để nhân rộng nông nghiệp sinh thái, ông Nguyễn Đỗ Anh Tuấn, Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ NN&MT cho rằng, cần tập trung vào chính sách và chương trình tăng trưởng xanh, trung hòa carbon và chuyển đổi hệ thống lương thực, thực phẩm. Bên cạnh đó, huy động toàn bộ hệ sinh thái tham gia từ Trung ương đến địa phương, từ viện nghiên cứu, trường đại học đến doanh nghiệp, hợp tác xã, nông dân và người tiêu dùng tạo nên chuỗi giá trị thống nhất. Cùng với đó, đầu tư mạnh cho khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, đặc biệt ứng dụng công nghệ sinh học, số hóa, trí tuệ nhân tạo và cơ giới hóa xanh để giảm phát thải, nâng cao năng suất và hiệu quả sinh kế cho nông dân.

Tại Việt Nam nhiều mô hình được triển khai mang lại hiệu quả, mô hình lúa tôm, lúa sen.
Ngoài ra, phát triển tài chính xanh và huy động nguồn lực xã hội, thông qua trái phiếu xanh, quỹ carbon, đối tác công tư và tín dụng xanh cho nông dân, hợp tác xã và doanh nghiệp nông nghiệp. Đồng thời, chia sẻ và nhân rộng các mô hình hiệu quả, xây dựng thư viện số nông nghiệp sinh thái Việt Nam, lưu giữ và lan tỏa tri thức, kinh nghiệm thực tế để cộng đồng cùng học hỏi và áp dụng.
Ông Nguyễn Đỗ Anh Tuấn cũng cho rằng, vai trò của hệ thống khuyến nông cộng đồng rất quan trọng trong việc kết nối tri thức, nâng cao nhận thức xã hội về sản xuất sinh thái, hướng đến mục tiêu nông nghiệp xanh, hiện đại, phát thải thấp và thích ứng với biến đổi khí hậu.
“Nông nghiệp sinh thái đã và đang trở thành định hướng chiến lược trong phát triển nông nghiệp, nông thôn của Việt Nam. Những mô hình như vườn ao chuồng ở đồng sông Hồng, lúa sen, lúa cá ở Đồng Tháp, tôm rừng ở Cà Mau, cà phê hữu cơ ở Lâm Đồng, nông lâm kết hợp ở Tây Bắc hay du lịch sinh thái cộng đồng ở Tràm Chim đã chứng minh nông nghiệp sinh thái không chỉ bảo vệ thiên nhiên mà còn làm giàu cho sinh kế của người nông dân. Tại ĐBSCL, nhiều HTX xã đã cho thấy năng suất ổn định, thu nhập tăng đến 30 - 50 %, lượng giảm phát thải tới 40 - 70 % trong mô hình 1 triệu hecta lúa chất lượng cao, phát thải thấp. Đây là minh chứng rõ ràng là thuận thiên, chính là thuận dân, thuận đời và thuận tương lai”, ông Tuấn khẳng định.

Điểm chung của các mô hình này là phát huy tri thức bản địa.
Vấn đề đặt ra cho thấy, chuyển đổi sang nông nghiệp sinh thái không chỉ là yêu cầu cấp thiết của thực tiễn, mà còn là định hướng phát triển tất yếu để Việt Nam giải quyết ba cuộc khủng hoảng toàn cầu đang tác động trực tiếp đến quốc gia gồm: biến đổi khí hậu, suy giảm đa dạng sinh học và mất an ninh lương thực.
Ông Tạ Đình Thi, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội cho biết, nông nghiệp sinh thái không đơn thuần là một phương thức canh tác mới, mà là một cách tiếp cận phát triển toàn diện, giúp Việt Nam thực hiện cam kết phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050, tuân thủ Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu, đồng thời bảo đảm an ninh sinh thái và an ninh lương thực quốc gia. Bên cạnh đó, các mô hình thực tiễn như lúa cá, lúa sen, nấm rơm trên rạ, nông lâm kết hợp, hợp tác xã kiểu mới, đã chứng minh rõ lợi ích kép vừa tăng thu nhập cho nông dân, vừa phục hồi môi trường và giảm phát thải. Những kết quả này đang dần trở thành bằng chứng thuyết phục cho hướng đi tất yếu của nền nông nghiệp nước ta.

Hành trình phát triển nông nghiệp sinh thái tại Việt Nam không chỉ dừng lại ở nhận thức và mô hình thí điểm.
Để phát triển nông nghiệp sinh thái cần hoàn thiện thể chế và khung pháp lý đồng bộ, từ Luật Đất đai, Luật Tài nguyên môi trường, Luật Khoa học Công nghệ đến các chính sách về tín dụng xanh, đổi mới sáng tạo và hợp tác công tư. Bên cạnh đó, cần đầu tư cho nghiên cứu, chuyển giao công nghệ xanh và sinh học ứng dụng, để Việt Nam có thể kiến tạo mô hình nông nghiệp sinh thái đặc trưng vùng nhiệt đới.
Ông Tạ Đình Thi cho rằng, nông nghiệp sinh thái không chỉ là ngành sản xuất mà là một nền văn hóa phát triển mới, nơi con người thiên nhiên kinh tế cùng song hành. Việt Nam hoàn toàn có khả năng trở thành hình mẫu về nông nghiệp sinh thái ở khu vực và trên thế giới, nếu có tư duy dài hạn, chính sách linh hoạt và sự phối hợp chặt chẽ.
“Nông nghiệp sinh thái không chỉ là ngành sản xuất mà là một nền văn hóa phát triển mới, nơi con người, thiên nhiên và kinh tế cùng song hành. Khi chúng ta nói về phát triển bền vững thì nông nghiệp sinh thái chính là điểm hội tụ của ba giá trị về khí hậu, đa dạng sinh học và phát triển sinh kế và hành trình này thì đòi hỏi tư duy một cách dài hạn với một thể chế, chính sách linh hoạt và sự phối hợp đồng bộ, chặt chẽ của các cấp, các ngành và cộng đồng. Mong rằng và cũng tin rằng ở Việt Nam chúng ta hoàn toàn có thể trở thành một hình mẫu về nông nghiệp sinh thái ở trong khu vực cũng như là trên thế giới”, ông Tạ Đình Thi nhấn mạnh.

Nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp tuần hoàn, nông nghiệp phát thải thấp là một trong những trụ cột của tái cơ cấu ngành ngành nông nghiệp.
Nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp tuần hoàn, nông nghiệp phát thải thấp là một trong những trụ cột của tái cơ cấu ngành của ngành nông nghiệp, đóng góp quan trọng vào mục tiêu phát thải ròng bằng “0” năm 2050. Để chuyển từ mô hình thí điểm sang chiến lược quốc gia, cần sự vào cuộc đồng bộ của nhà nước, nhà khoa học, doanh nghiệp và người dân. Chỉ khi chuỗi giá trị này được hình thành, nông nghiệp sinh thái mới thực sự trở thành động lực phát triển kinh tế nông thôn bền vững.
Để con đường nông nghiệp sinh thái lan tỏa mạnh mẽ hơn, giải pháp hàng đầu là đặt người nông dân ở vị trí trung tâm. Chính sách chỉ thực sự hiệu quả khi nông dân được tiếp cận tri thức, thị trường và được tin tưởng trao quyền. Cùng với đó, kết hợp hài hòa tri thức bản địa với khoa học, công nghệ hiện đại. Khi kinh nghiệm của người nông dân hòa cùng dữ liệu số, công nghệ sinh học và tín chỉ carbon, sẽ hình thành những mô hình nông nghiệp tuần hoàn, đa giá trị. Mặt khác, huy động mọi nguồn lực xã hội cho phát triển nông nghiệp xanh. Ngân sách nhà nước là hạt giống ban đầu, nhưng để cánh đồng bền vững cần thêm dòng chảy của tín dụng xanh, trái phiếu xanh và sự đồng hành của doanh nghiệp, cộng đồng.












