Nhớ đồng

HNN - Chị gái nhắn tin vào nhóm Zalo gia đình, rủ rê: 'Cuối tuần này gặt xong, có đứa em nào về phụ chị bắt cá đồng không? Tiện thể, cho mấy đứa nhỏ trải nghiệm cảm giác mò hồ bắt hôi cá như ba mẹ nó ngày xưa'. Đọc xong, tôi chỉ mong thời gian vụt nhanh để chở hai đứa nhỏ về ngoại, cho chúng chạm vào ký ức tươi đẹp của 'tuổi thơ dữ dội'.

Ngày trước, ở cuối làng tôi có một dãy hồ nằm liền kề nhau. Người lớn vẫn gọi đó là “hồ bom” - vết tích còn lại của những tháng ngày chiến tranh ác liệt. Bom đạn gieo xuống đau thương, nhưng rồi thời gian đã biến những hố sâu tang tóc thành hồ nước trong xanh. Cây năng, lác, rong rêu mọc lên phủ mát mặt hồ. Cá, tôm cũng tìm về đây cư ngụ, sinh sôi, tạo nên một nguồn lợi tự nhiên cho dân làng.

Ở quê tôi, sau vụ gặt lúa hè thu (bà con vẫn quen gọi là vụ Tám, vì thu hoạch lúa vào tháng Tám âm lịch) sẽ đến mùa tát hồ bắt cá trước khi bão lũ tràn về. Khi đồng vừa gặt xong, hương rơm rạ còn ngai ngái, tiếng loa thông báo đấu hồ của hợp tác xã lại rộn vang. Nhà nào đăng ký sẽ nộp một khoản phí, rồi ra hồ đã đấu bơm cạn nước, bắt cá. Nhà tôi có chiếc máy bơm chạy dầu nên năm nào ba tôi cũng góp mặt.

Trước ngày hút hồ, ba thường đạp xe lên thị trấn mua can dầu, chiếc đèn pin và vài cặp pin con ó dự phòng. Vợt, dũi, nơm, xô, thau, đã sẵn từ mùa trước, chỉ chờ mang ra dùng lại. Đến ngày bắt cá, ông dậy từ tờ mờ sáng, ăn vội bát cơm rồi kéo chiếc máy bơm ra đồng. Tiếng máy quay ì ạch, mở màn cho khúc dạo đầu mùa thu hoạch cá. Dòng nước ào ào xối ra kênh mương, đến chiều thì mặt hồ mới lộ lớp bùn non mịn mượt. Cá quẫy loạn xạ, vảy bạc lấp lánh dưới nắng. Người lớn lội xuống, thoăn thoắt chụp cá bỏ vào xô, vợt. Có lúc, gặp cá to quẩy bùn tung tóe khắp người. Ai bắt trúng thì phấn khích, còn người xem thì hò reo thích chí. Mạ tôi và các o, dì ở trên bờ phân loại cá: lóc, thác lác, trắm cỏ, gáy, rô, lươn, tôm tép… để mang ra chợ bán, gỡ gạc ít tiền chi phí. Phần còn lại chia đều cho mỗi nhà để trữ ăn dần.

Lũ trẻ chúng tôi cũng góp sức, nhưng háo hức nhất vẫn là khoảnh khắc “bắt hôi” - mò những con cá còn sót lại sau khi hồ đã được thu hoạch xong. Niềm vui của bắt hôi không nằm ở số lượng mà ở sự bất ngờ. Dù bùn lạnh se se bám chặt chân, rong rêu quấn ngứa ngáy, mắt phải căng tìm nơi cá ẩn trốn, nhưng đứa nào cũng hăng say. Có khi, tôi mò trúng cá rô, bị gai nhọn chích đau nhói. Thế nhưng, đến lúc vớ được con cá lóc to lẩn trốn trong hang thì cơn đau như chưa hề có, chỉ còn niềm vui vỡ òa.

Nhiều lần, ngập lặn bùn cả buổi, áo quần lấm lem, thành quả mang về nhà chỉ vài con cá rô, cá diếc, thế nhưng phụ huynh cũng chẳng ai phàn nàn. Chị tôi hớn hở đem số cá ít ỏi ấy chia ra, phần kho với ớt muối chua, phần nấu canh khế xanh ngoài vườn, vậy mà cả nhà có bữa cơm dân dã ngon lành.

Giờ đây, phần lớn hố bom năm xưa đã được san lấp thành ruộng lúa. Trẻ con trong làng ít có dịp lội bùn, mò cá như thế hệ chúng tôi. Nhưng mỗi lần nghe ai nhắc, ký ức ấy lại ùa về như một thước phim sống động. Bắt hôi cá đồng với tôi không chỉ là trò vui thời con trẻ, mà còn là hơi thở của làng quê. Chút bùn đất, mớ cá đồng bé nhỏ ngày ấy đã hóa thành hương vị ký ức. Và rồi mỗi lần nhớ lại, lòng tôi như được trở về với mùa thơ dại trên đồng làng, nơi niềm vui lấp lánh giữa bùn non và nắng thu vàng rực rỡ.

Phạm Quyên

Nguồn Thừa Thiên Huế: https://huengaynay.vn/doi-song/nho-dong-158660.html