Ngừa đột quỵ: 2 sai lầm trên bàn ăn mà người châu Á hay mắc
Một phân tích toàn cầu cho thấy người dân khu vực Đông Á, Đông Nam Á và Trung Á thuộc 'top 5' về nguy cơ đột quỵ do chế độ ăn uống.
Nhóm nghiên cứu từ Bệnh viện Nhân dân tỉnh Hồ Nam và Bệnh viện Xiangya số 2 thuộc Đại học Trung Nam (Trung Quốc) đã phân tích bộ dữ liệu khổng lồ từ một cuộc khảo sát sức khỏe quốc tế và chỉ ra cách mà mỗi người có thể tự phòng ngừa đột quỵ nhờ thói quen ăn uống.
Viết trong bài công bố trên tạp chí khoa học Frontiers in Nutrition hôm 30-12, nhóm tác giả cho biết đột quỵ được xếp hạng là nguyên nhân gây tử vong đứng thứ hai và là nguyên nhân gây tàn tật đứng thứ ba trên toàn cầu.
Nghiên cứu chỉ ra rằng hơn 90% các cơn đột quỵ có thể là do các yếu tố có thể thay đổi được như sử dụng thuốc lá, dinh dưỡng, ô nhiễm không khí và ít vận động.
Lần này, họ tập trung phân tích mối liên quan giữa đột quỵ và chế độ ăn uống.
Phân tích bộ dữ liệu được thu thập từ 204 quốc gia và 811 khu vực trên toàn cầu, nhóm tác giả chỉ ra kết quả cho thấy 5 khu vực mà thói quen ăn uống tác động mạnh mẽ đến nguy cơ đột quỵ nhất lần lượt là Trung Âu, Đông Á, Đông Âu, Đông Nam Á và Trung Á.
Đây cũng là 5 khu vực có tỉ lệ người bị tàn tật do di chứng đột quỵ cao nhất thế giới.
Xét về thực đơn quen thuộc của người dân sống ở các khu vực khác nhau, nhóm tác giả cũng chỉ ra 2 thói quen hàng đầu làm tăng nguy cơ đột quỵ mà nhiều người hay mắc trên bàn ăn: Ăn quá nhiều natri và ăn thiếu trái cây.
Sự dư thừa natri là do thói quen ăn quá mặn, điều mà người dân nhiều khu vực ở châu Á thường xuyên mắc phải. Bởi lẽ natri được nạp vào cơ thể thông qua muối ăn thông thường (natri clorua).
Trái lại, lọt thỏm giữa các khu vực mà nguy cơ đột quỵ do chế độ ăn uống nổi bật, người dân Địa Trung Hải lại có chế độ ăn giúp phòng ngừa biến cố chết người này tốt nhất.
Dữ liệu tổng hợp từ các nghiên cứu cho thấy chế độ ăn Địa Trung Hải - đặc trưng bởi nhiều rau, trái cây, cá, đậu và hạt, dầu thực vật lành mạnh như dầu ô liu; hạn chế thực phẩm chế biến sẵn và thịt đỏ... - giúp giảm tới 40% nguy cơ đột quỵ.
"Những hiểu biết sâu sắc này có thể cung cấp thông tin cho việc phát triển và thực hiện các can thiệp chế độ ăn uống có mục tiêu nhằm giảm tỉ lệ mắc bệnh và tử vong do đột quỵ" - nhóm tác giả kết luận.