Khơi thông nguồn vốn cho kinh tế tư nhân: Từ chính sách đến giải pháp tháo gỡ điểm nghẽn
Để hiện thực hóa mục tiêu phát triển kinh tế tư nhân theo tinh thần Nghị quyết số 68-NQ/TW, việc tạo đột phá về thể chế, đặc biệt là khơi thông các nguồn lực về vốn, được xem là yếu tố then chốt. Nhiều chính sách đã được ban hành, song giới chuyên gia và doanh nghiệp cho rằng cần có những giải pháp thực chất hơn để nguồn vốn thực sự đến được với khu vực này.
Theo chủ trương của Nghị quyết số 68-NQ/TW, ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân, Quốc hội đã thông qua nhiều chính sách hỗ trợ cụ thể cho các doanh nghiệp thuộc khu vực này. Đáng chú ý, Nghị quyết số 198/2025/QH15 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển kinh tế tư nhân nêu rõ, doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân, hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh sẽ được Nhà nước hỗ trợ lãi suất 2% khi vay vốn để thực hiện các dự án xanh, tuần hoàn và áp dụng khung tiêu chuẩn môi trường, xã hội, quản trị (ESG). Đây là một nội dung quan trọng, có mục tiêu tháo gỡ những vướng mắc lớn của doanh nghiệp tư nhân, bao gồm cả doanh nghiệp siêu nhỏ, hộ kinh doanh và cá nhân kinh doanh, những đối tượng thường hạn hẹp về nguồn lực và gặp khó khăn khi tiếp cận vốn vay, nhất là nguồn vốn đầu tư vào các lĩnh vực có chi phí cao và mang tính dài hạn.
Tháo gỡ "điểm nghẽn" trong thực thi
TS. Nguyễn Xuân Thành, giảng viên cao cấp Trường Chính sách công và Quản lý Fulbright, nhận định Việt Nam đang đứng trước yêu cầu cấp thiết phải tái thúc đẩy tăng trưởng. Trong bối cảnh đó, việc phát triển khu vực tư nhân không thể chỉ dừng lại ở thông điệp chính trị mà cần các đột phá thể chế cụ thể. Nghị quyết số 139/NQ-CP của Chính phủ về kế hoạch triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 của Quốc hội đã đề ra nhiều hướng tiếp cận nguồn lực, bao gồm cả việc tiếp cận đất đai.
Đối với việc tiếp cận vốn, TS. Thành cho rằng cần đa dạng hóa các kênh tín dụng, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho khối kinh tế tư nhân tiếp cận được nguồn vốn, khơi thông thị trường trái phiếu doanh nghiệp, đồng thời sửa đổi luật pháp để mở rộng đối tượng được hỗ trợ và đơn giản hóa các thủ tục vay vốn.
Chỉ ra "điểm nghẽn" hiện nay nằm ở khâu thực thi, TS. Thành nhấn mạnh: "Hỗ trợ phải đến từ nguồn lực thực, tránh lặp lại cơ chế xin - cho và tuyệt đối không nên tạo thêm bộ máy giám sát rườm rà".
Đồng quan điểm, PGS-TS. Nghiêm Thị Thà, Tổng thư ký Hiệp hội Tư vấn Tài chính Việt Nam (VFCA), cũng cho rằng để khu vực kinh tế tư nhân phát triển bền vững, cần khơi thông các dòng vốn (cả ngắn hạn và dài hạn) một cách thực chất và hiệu quả. Về nguồn vốn ngắn hạn, khu vực kinh tế tư nhân hiện chiếm khoảng 50% tổng dư nợ của toàn hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, các doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn phải chịu mức lãi suất vay thương mại dao động quanh mức 9 - 11%/năm, cao hơn so với mặt bằng chung trong khu vực ASEAN (6 - 7%/năm). Khó khăn lớn nhất vẫn nằm ở khả năng tiếp cận tín dụng, đặc biệt đối với các hộ kinh doanh cá thể.
Giải pháp khơi thông dòng vốn
Để nâng cao khả năng tiếp cận vốn cho doanh nghiệp tư nhân và hỗ trợ khu vực này bứt phá, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho biết sẽ tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ một cách chủ động, kiểm soát lạm phát, ổn định tỷ giá và mặt bằng lãi suất, qua đó góp phần tạo lập một môi trường kinh doanh ổn định. NHNN cũng sẽ theo dõi, thanh tra, kiểm tra các ngân hàng có biểu hiện tăng lãi suất tiền gửi và cho vay không phù hợp.
Theo các chuyên gia, để cải thiện khả năng tiếp cận vốn tín dụng, các doanh nghiệp tư nhân cần chủ động nâng cao tính minh bạch trong quản lý tài chính, đặc biệt là sổ sách kế toán, đồng thời củng cố năng lực quản trị doanh nghiệp.
Số liệu từ NHNN cho thấy, đến tháng 4/2025, lãi suất cho vay bình quân đối với các giao dịch phát sinh mới của các ngân hàng thương mại đã giảm 0,6%/năm so với cuối năm 2024. Điều này đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tư nhân giảm bớt áp lực về vốn trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Đối với 5 lĩnh vực ưu tiên (xuất khẩu, nông nghiệp, công nghệ cao, doanh nghiệp nhỏ và vừa, công nghiệp hỗ trợ), lãi suất cho vay được duy trì ổn định ở mức 4%/năm.
Ông Từ Tiến Phát, Tổng giám đốc Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB), cho rằng cơ chế hỗ trợ lãi suất 2% cho các doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp đổi mới sáng tạo và áp dụng ESG là rất cần thiết. Tuy nhiên, trên thực tế, việc triển khai chính sách này vẫn còn gặp nhiều rào cản, cả từ phía ngân hàng lẫn doanh nghiệp. Vì vậy, cần có thêm các giải pháp đồng bộ, bao gồm việc cắt giảm thủ tục hành chính, số hóa quy trình cấp tín dụng và xây dựng chi tiết hơn về khung tín dụng xanh. "Là một ngân hàng tư nhân, chúng tôi thấu hiểu quá trình chuyển dịch của khu vực kinh tế tư nhân. Các doanh nghiệp rất sẵn sàng đầu tư, đổi mới, nhưng họ cần thấy rõ sự cụ thể, minh bạch trong chính sách", ông Phát chia sẻ.
Tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (Agribank), tổng dư nợ hiện đạt hơn 1,7 triệu tỷ đồng. Trong đó, hơn 60% được phân bổ cho lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn và nông dân, với nhóm khách hàng chủ yếu là các hộ kinh tế tư nhân. Bà Phùng Thị Bình, Phó Tổng giám đốc Agribank, cho biết trong gần 500.000 tỷ đồng dư nợ cho vay đối với khách hàng pháp nhân, có tới 90% thuộc về các doanh nghiệp tư nhân. Theo kế hoạch được giao, năm 2025, Agribank được phân bổ hạn mức tăng trưởng tín dụng 13%, tương ứng khoảng 230.000 tỷ đồng sẽ được đưa vào lưu thông. Ngân hàng xác định nguồn vốn này chủ yếu sẽ được ưu tiên cho vay đối với khách hàng thuộc khối kinh tế tư nhân.