Góp ý Luật Quản lý đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp: Nhiều ý kiến góp ý về vấn đề xác định đối tượng doanh nghiệp chịu điều chỉnh
Đối tượng doanh nghiệp nhà nước (DNNN) chịu điều chỉnh bởi Luật Quản lý đầu tư vốn nhà nước tại DN tiếp tục là vấn đề được nhiều DN đưa ra trong các buổi góp ý liên quan đến dự thảo Luật này.
Nhiều ý kiến về đối tượng điều chỉnh
Theo Bộ Tài chính - Cơ quan soạn thảo, một trong những nội dung được nhiều DN quan tâm góp ý tại các Tọa đàm lấy ý kiến về dự thảo Luật là vấn đề xác định đối tượng DN chịu điều chỉnh tại dự thảo Luật.
Hiện nay, theo thiết kế tại dự thảo, đối tượng điều chỉnh là DN có vốn nhà nước đầu tư, bao gồm DN có vốn nhà nước đầu tư trực tiếp (F1) và “DN có vốn đầu tư từ DN có vốn nhà nước đầu tư trực tiếp” (F2) nhằm bảo đảm nguyên tắc quản lý theo dòng vốn đầu tư, Nhà nước thực sự đóng vai trò là chủ sở hữu vốn, nhà đầu tư vốn, bình đẳng về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm với các nhà đầu tư khác trong DN, phù hợp với tinh thần Nghị quyết số 12-NQ/TW, bảo đảm việc phân công rõ, phân cấp mạnh tạo điều kiện cho DN chủ động trong hoạt động sản xuất kinh doanh, không làm mở rộng thêm đối tượng quản lý so với hiện nay.
Ông Tạ Hữu Doanh, Trưởng Ban Tổng hợp - Pháp chế (Tập đoàn Dệt may Việt Nam) cho biết, dự thảo lần này so với Luật 69/2014/QH13 trước đây đã tách bạch các nhóm DN, DN F1 do Nhà nước trực tiếp nắm giữ vốn, DN F2 do DN F1 nắm giữ vốn giúp cho các DN hoạt động thuận lợi hơn. Tuy nhiên, đối với DN F2 nên xác định rõ ràng, cụ thể hơn. “Tập đoàn ủng hộ quan điểm về đối tượng DN F2 là DN có vốn đầu tư trên 50% vốn điều lệ của F1. Bởi DN F1 đầu tư tới DN F2, nếu sở hữu ít cổ phần sẽ không được quyền chi phối, quyết định DN F2, các quyết định chỉ đạo từ F1 xuống F2 rất khó thực hiện” - ông Doanh phân tích.
Đồng tình với quan điểm “DN F2 phải có trên 50% vốn đầu tư từ F1”, ông Lê Văn Thanh - Phó Tổng Giám đốc Tổng Công ty Thép Việt Nam phân tích, theo dự thảo, phạm vi DN quy định đến tất cả các DN có vốn đầu tư của DN có vốn nhà nước đầu tư trực tiếp sẽ bao gồm cả các DN mà tỉ lệ vốn góp của Nhà nước hoặc tỷ lệ vốn của F1 tại F2 rất nhỏ. Vì vậy, trong trường hợp thông qua người đại diện không có khả năng chi phối, quyết định vấn đề quan trọng của công ty dẫn đến hiệu quả quản lý theo phạm vi không đạt được.
Ông Phạm Xuân Hoàn, Trưởng Ban Pháp chế (Công ty CP viễn thông FPT) cũng cho rằng, Luật nên cân nhắc, xem xét lại phạm vi điều chỉnh của Luật. Bởi hiện nay Viễn thông FPT đang hoạt động theo Luật Doanh nghiệp, Luật Chứng khoán nên việc quy định DN F2 thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật gây khó trong việc chờ xin ý kiến từ F1, do DN hoạt động trong lĩnh vực viễn thông truyền hình, thuộc lĩnh vực công nghệ do đó đòi hỏi quyết định đầu tư cần nhanh và chính xác.
Phân định dòng vốn từ F1 xuống F2
Ông Nguyễn Chí Thành - Chủ tịch Hội đồng thành viên Tổng Công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) kiến nghị, trong quá trình thiết kế Luật, cần lưu ý việc tiếp tục tách bạch chức năng chủ sở hữu vốn với chức năng quản lý nhà nước tại DN sâu hơn, toàn diện, triệt để hơn. Bên cạnh đó, việc phân định giữa DN có 100% vốn nhà nước và DN có vốn của DN nhà nước cần rõ hơn. Về phương thức quản lý đối với đối tượng DN F1, F2 nên hướng dẫn, phân cấp rõ ràng.
“Đối với DN F2 nghiên cứu phân cấp những nội dung nào, như phê duyệt chiến lược, đề án tái cơ cấu, giao nhiệm vụ hàng năm có thể xin thêm ý kiến chủ sở hữu. Còn đối với các nội dung về chủ trương đầu tư, tăng giảm vốn hay quản lý các hoạt động thường xuyên của DN F2 có thể giao, phân cấp cho người đại diện và hội đồng thành viên, hội đồng quản trị của DN này” - ông Nguyễn Chí Thành đề xuất.
Bà Trịnh Thúy Quỳnh, Phó Tổng Giám đốc Tổng Công ty Phát điện 1 (EVNGENCO1), cho biết, Luật số 69/2014/QH13 trước đây cũng như các Luật Doanh nghiệp, Luật Đấu thầu, Luật Đầu tư, Luật Xây dựng hay các nghị định, thông tư hướng dẫn thường sử dụng khái niệm DNNN. Tuy nhiên, tại dự thảo Luật hiện nay lại đưa ra khái niệm “DN có vốn nhà nước đầu tư trực tiếp” và “DN có vốn nhà nước đầu tư khác”, điều này khiến các DN lúng túng khi xác định đối tượng áp dụng giữa dự thảo Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại DN với các luật chuyên ngành khác.
Liên quan đến nội dung dòng vốn nhà nước đầu tư và dòng vốn DN đầu tư, tại dự thảo sử dụng khái niệm DN có vốn nhà nước đầu tư khác (F2), cần làm rõ vốn của F1 đầu tư vào F2. Do vốn của F1 đầu tư vào F2 không chỉ có vốn nhà nước, mà còn có cả vốn của F1 huy động từ nguồn khác, phần nguồn vốn vay khác hay từ Quỹ đầu tư phát triển trích để lại... Do đó, việc sử dụng khái niệm DN F2 có vốn nhà nước đầu tư từ F1 chưa phản ánh đúng nội hàm vốn của nhà nước đầu tư.
Đồng thời, bà Quỳnh cũng bày tỏ băn khoăn, trường hợp coi F2 là DN có vốn nhà nước đầu tư khác thì dòng vốn do F2 đầu tư vào các công ty cổ phần tiếp theo có được coi là vốn đầu tư nhà nước khác không (DN F3, F4). Và DN F3, F4 có thuộc đối tượng điều chỉnh của luật hay không. Quy định này sẽ ảnh hưởng tới việc F2 cử người đại diện, cũng như trong việc xây dựng quy chế quản lý nội bộ từ F2 xuống các F dưới và đề nghị cơ quan soạn thảo làm rõ về nội dung này.