Giáo dục nghề nghiệp: Vai trò then chốt trong chiến lược nguồn nhân lực quốc gia
Báo Công Thương đã có cuộc trao đổi với ông Đào Trọng Độ - Trưởng phòng Giáo dục chính quy, Cục Giáo dục nghề nghiệp và Giáo dục thường xuyên để hiểu hơn vấn đề này
Đổi mới từ quy mô đến chất lượng đào tạo
- Thưa ông, với vai trò là cơ quan tham mưu chiến lược và quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp, Cục đánh giá như thế nào về thực trạng và nhu cầu nguồn nhân lực đào tạo nghề hiện nay nói chung và ngành Công Thương nói riêng? Theo ông, đâu là cơ hội của giáo dục nghề nghiệp trong việc cung ứng nguồn nhân lực chất lượng cho các ngành kinh tế trọng điểm, đặc biệt là ngành Công Thương?
Ông Đào Trọng Độ: Theo số liệu từ Tổng cục Thống kê, Việt Nam hiện có khoảng 53,1 triệu người trong độ tuổi lao động. Tuy nhiên, tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ chỉ đạt khoảng hơn 29%, còn khá thấp so với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Điều này đặt ra thách thức lớn về chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Giáo dục nghề nghiệp đóng vai trò then chốt trong việc cung cấp nguồn nhân lực chất lượng, nhất là cho ngành Công Thương – một ngành kinh tế mũi nhọn, quản lý đa lĩnh vực và có nhu cầu nhân lực lớn.

Ông Đào Trọng Độ - Trưởng phòng Giáo dục chính quy, Cục Giáo dục nghề nghiệp và Giáo dục thường xuyên (Bộ Giáo dục và Đào tạo)
Hiện nay, các cơ sở đào tạo nghề đang từng bước đổi mới, bắt nhịp với yêu cầu thị trường, cung ứng nhân lực chất lượng cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, tỷ lệ lao động qua đào tạo thấp cho thấy cần tăng cường đầu tư, đổi mới từ quy mô đến chất lượng đào tạo. Đối với ngành Công Thương, gần 40% nguồn nhân lực được đào tạo trực tiếp phục vụ sản xuất công nghiệp, số còn lại phục vụ dịch vụ, xây dựng và các lĩnh vực khác. Các doanh nghiệp lớn hiện nay cũng đã quan tâm hơn đến việc tự tổ chức đào tạo nhân lực để nâng cao năng suất, khả năng cạnh tranh và mở rộng sản xuất. Nhiều doanh nghiệp đã đầu tư xây dựng trường nghề hoặc cơ sở đào tạo riêng, tạo cơ hội lớn cho giáo dục nghề nghiệp gắn kết trực tiếp với nhu cầu thực tiễn.
- Vậy, theo ông, hiện các cơ sở đào tạo nghề đã đổi mới như thế nào để đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực cho thực tiễn, đặc biệt trong ngành Công Thương?
Ông Đào Trọng Độ: Để bắt nhịp với nhu cầu thị trường, giáo dục nghề nghiệp đang đổi mới theo các hướng chính. Thứ nhất, các chương trình đào tạo được rà soát, điều chỉnh để phù hợp với yêu cầu thực tiễn tại doanh nghiệp, đảm bảo người học có thể làm việc ngay sau khi tốt nghiệp. Thứ hai, tăng cường gắn kết với doanh nghiệp, coi doanh nghiệp là một thành tố quan trọng trong quá trình đào tạo. Thứ ba, bám sát nhu cầu thị trường lao động, đặc biệt là các kỹ năng nghề nghiệp, kỹ năng mềm và kỹ năng số trong bối cảnh chuyển đổi công nghệ. Thứ tư, đổi mới đội ngũ giáo viên, huy động các kỹ sư, thợ giỏi từ doanh nghiệp tham gia trực tiếp giảng dạy, giúp kết nối lý thuyết với thực tiễn sản xuất. Cuối cùng, các cơ sở đào tạo chú trọng xây dựng hệ thống linh hoạt, mở, tạo điều kiện để người học dễ dàng tiếp cận chương trình phù hợp.
Những đổi mới này không chỉ nâng cao chất lượng đào tạo mà còn giúp người học xác định rõ cơ hội việc làm, vị trí công việc và mức thu nhập sau tốt nghiệp, từ đó tạo tâm thế học nghề như một cánh cửa mở ra tương lai, thay vì coi đó là lựa chọn cuối cùng.
Xây dựng một hệ thống giáo dục nghề nghiệp mở, linh hoạt, hội nhập
- Thưa ông, thực tế triển khai đào tạo nghề tại các cơ sở thuộc ngành Công Thương hiện nay đang đối mặt với những thách thức nào, đặc biệt là tại các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, nơi tiềm ẩn nhiều lao động trẻ nhưng thiếu cơ hội tiếp cận?
Ông Đào Trọng Độ: Đúng vậy, đào tạo nghề ở vùng sâu, vùng xa đang đối mặt với nhiều thách thức như mạng lưới cơ sở đào tạo chưa phủ rộng, chủ yếu tập trung ở đồng bằng và đô thị lớn, trong khi các vùng khó khăn thiếu cơ sở vật chất và thiết bị hiện đại. Bên cạnh đó, việc tiếp cận thông tin và chương trình đào tạo còn hạn chế, đặc biệt với thanh niên và người lao động ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Ngoài ra, nhận thức về tầm quan trọng của học nghề để có việc làm bền vững còn chưa cao, khiến tỷ lệ tham gia đào tạo ở những khu vực này thấp.
Để giải quyết, chúng ta đang triển khai nhiều chính sách hỗ trợ, như miễn giảm học phí, hỗ trợ nội trú, chi phí ăn ở và đi lại cho học viên vùng khó khăn theo Quyết định 46/2015/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ quy định chính sách hỗ trợ đào tạo trình độ sơ cấp, đào tạo dưới 03 tháng. Các chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển nông thôn mới, giảm nghèo bền vững và phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số cũng có nội dung hỗ trợ đào tạo nghề.

Trường Cao đẳng Công nghệ và Kinh tế Công nghiệp tuyển sinh tại một số Trường THPT tại Điện Biên
Bộ Giáo dục và Đào tạo đang sửa đổi các chính sách, điều chỉnh định mức hỗ trợ và đề xuất nguồn lực mới để tạo điều kiện tốt nhất cho người học ở vùng khó khăn. Ngoài ra, việc ứng dụng chuyển đổi số và xây dựng hệ thống đào tạo linh hoạt sẽ giúp người học tiếp cận dễ dàng hơn.
- Ông có thể chia sẻ thêm về những chính sách và định hướng mới nào nhằm hỗ trợ giáo dục nghề nghiệp cho đối tượng học sinh, sinh viên vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa trong các lĩnh vực ngành Công Thương?
Ông Đào Trọng Độ: Hiện nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo đang sửa đổi ba luật: Luật Giáo dục, Luật Giáo dục Đại học và Luật Giáo dục Nghề nghiệp, nhằm tạo khung pháp lý thuận lợi hơn cho đào tạo nghề. Một định hướng đột phá là xây dựng chương trình trung học nghề, kết hợp giảng dạy văn hóa và dạy nghề, giúp học sinh sau tốt nghiệp trung học cơ sở có thể học lên trình độ cao hơn hoặc tham gia thị trường lao động với tay nghề vững vàng. Chương trình này sẽ tối ưu hóa nguồn nhân lực, đặc biệt cho các ngành kinh tế trọng điểm như Công Thương.
Ngoài ra, việc gắn kết nhà trường, doanh nghiệp và cơ quan quản lý đang được đẩy mạnh. Doanh nghiệp tham gia vào quá trình đào tạo giúp người học nắm rõ cơ hội việc làm, vị trí công việc và thu nhập sau tốt nghiệp. Đây là cách để học nghề trở thành lựa chọn hấp dẫn, mang tính liên thông và hội nhập, mở ra cơ hội phát triển cho mọi đối tượng, đặc biệt là thanh niên vùng khó khăn.
Ông Đào Trọng Độ: Với tầm nhìn xa hơn, để đào tạo nghề ngành tiệm cận với chuẩn mực quốc tế và đáp ứng yêu cầu thị trường lao động toàn câùchúng tôi hướng đến xây dựng một hệ thống giáo dục nghề nghiệp mở, linh hoạt, hiệu quả và hội nhập. Các trường nghề cần tiếp tục đổi mới chương trình, phương thức đào tạo và tăng cường hợp tác với doanh nghiệp để đào tạo theo đơn đặt hàng, đào tạo kép và tích hợp chuyển đổi số. Mục tiêu là biến các trường nghề thành trung tâm đào tạo nhân lực chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu của ngành Công Thương và các ngành kinh tế khác. Quan trọng hơn, chúng tôi muốn thay đổi nhận thức xã hội, để học nghề không chỉ là lựa chọn mà là cơ hội để người lao động phát triển bền vững, góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
PV: Cảm ơn ông đã chia sẻ!