Giải pháp từ thể chế, nhân lực, hạ tầng để hiện thực hóa Nghị quyết 57
Triển khai Nghị quyết 57, Việt Nam đặt mục tiêu gỡ 'điểm nghẽn' về thể chế, nhân lực, hạ tầng để bứt phá khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Trong đó, dịch vụ công trực tuyến được coi là mũi nhọn, vừa nâng cao hiệu quả quản trị, vừa đưa chính sách đến gần hơn với người dân và doanh nghiệp.
Sáu thách thức
Tại hội thảo mới đây tại Hải Phòng, ông Nguyễn Huy Dũng - Ủy viên Chuyên trách, Ban Chỉ đạo Trung ương về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và Chuyển đổi số đã thông tin về những thách thức và các vấn đề đặt ra trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.

Ông Nguyễn Huy Dũng thông tin về tình hình triển khai Nghị quyết 57 tới các nhà khoa học.
Theo đó, thách thức đầu tiên mà chúng ta đang đối diện chính là thách thức về nhận thức. Sau khi Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị được ban hành, toàn Đảng, toàn dân, cả hệ thống chính trị đã có bước chuyển biến rõ rệt về tư duy và hành động đối với khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Tuy nhiên, trước yêu cầu phát triển mới, nhận thức vẫn cần tiếp tục được đổi mới, bổ sung những nhiệm vụ, những nội dung mới, phù hợp với bối cảnh toàn cầu và những xu hướng công nghệ mới nổi.
Thách thức thứ hai nằm ở thể chế. Thể chế được xác định là “điểm nghẽn” của sự phát triển. Dù thời gian qua các cấp, các ngành đã có nhiều nỗ lực đột phá, song sự vận hành vẫn còn bất cập, thiếu tính đồng bộ, chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu của thực tiễn.
Thách thức tiếp theo là nguồn nhân lực. Trong suốt 20 - 30 năm qua, chúng ta vẫn tập trung vào cả số lượng lẫn chất lượng nhân lực. Tuy nhiên, với sự xuất hiện của những công nghệ mới chỉ trong vòng 5 - 10 năm trở lại đây, cơ hội mở ra cho Việt Nam tham gia ngay từ đầu, rút ngắn khoảng cách và đồng hành cùng xu thế toàn cầu. Nhưng để làm được điều này, yêu cầu về nhân lực công nghệ chất lượng cao trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.
Về hạ tầng, Việt Nam đang cùng lúc đối diện với cả hạ tầng truyền thống lẫn hạ tầng mới, đặc biệt là hạ tầng số. Sự thiếu hụt và chậm trễ trong hoàn thiện hệ thống hạ tầng đồng bộ sẽ là rào cản trực tiếp cho tiến trình phát triển.
Một thách thức quan trọng khác là công nghệ chiến lược. Thực tế cho thấy, chúng ta chưa có bước đột phá trong việc làm chủ các công nghệ lõi, công nghệ nền tảng, điều này khiến Việt Nam dễ bị phụ thuộc và tụt hậu trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu ngày càng gay gắt.
Và cuối cùng, an ninh mạng là yếu tố then chốt, mang tính quyết định. Bởi lẽ, mọi tiến trình phát triển đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số chỉ có thể nhanh và bền vững nếu được bảo đảm bởi nền tảng an toàn, an ninh mạng vững chắc.
Ông Dũng khẳng định: Nếu không giải quyết căn bản sáu nhóm thách thức nêu trên, từ nhận thức, thể chế, nhân lực, hạ tầng, công nghệ chiến lược cho đến an ninh mạng, thì Việt Nam sẽ rất khó đạt được sự phát triển mang tính đột phá và bền vững trong kỷ nguyên mới.
Những vấn đề đặt ra
Ông Nguyễn Huy Dũng nhấn mạnh, bên cạnh việc xác định thách thức và quan điểm chỉ đạo, công tác lãnh đạo, tổ chức thực hiện cũng còn nhiều vấn đề cần quan tâm.
Trước hết, về công tác cán bộ. Đảng đã có chỉ đạo rất rõ ràng: cần bố trí số lượng cán bộ có trình độ khoa học, kỹ thuật tham gia vào cơ cấu cấp ủy các cấp. Đây là yêu cầu quan trọng nhằm đưa trí tuệ khoa học vào trong lãnh đạo, chỉ đạo. Tuy nhiên, thực tế triển khai ở nhiều địa phương, trong đó có tỉnh Thái Nguyên, cho thấy việc tìm đủ nguồn cán bộ chuyên môn kỹ thuật để tham gia cấp ủy là hết sức khó khăn.
Ông Nguyễn Huy Dũng lấy dẫn chứng khi ông còn giữ cương vị Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Thái Nguyên, nguồn cán bộ khoa học, kỹ thuật chỉ dừng lại ở một, hai đồng chí, chưa đủ để đáp ứng yêu cầu cơ cấu. Điều này phản ánh thách thức lớn về nhân lực khoa học công nghệ trong hệ thống chính trị, đòi hỏi phải có giải pháp căn cơ.
Mở rộng ra ở lĩnh vực doanh nghiệp, ông nhấn mạnh: Trong bối cảnh cạnh tranh khốc liệt, mọi doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển đều phải trở thành doanh nghiệp khoa học, công nghệ trong lĩnh vực của mình. Từ vận tải, logistics, thương mại cho đến các ngành sản xuất truyền thống, chỉ khi ứng dụng công nghệ, đổi mới sáng tạo thì mới giữ được thị phần trong nước và vươn ra quốc tế. Nếu không, nguy cơ mất thị phần là điều tất yếu.
Tiếp theo, về nhận thức xã hội và kỹ năng số. Theo ông, điểm mới thứ hai là nâng cao nhận thức xã hội thông qua chương trình “bình dân học vụ số”, đây là một nỗ lực phổ cập kỹ năng số cho toàn dân.
Ông Nguyễn Huy Dũng chia sẻ, tại Thái Nguyên, chương trình được triển khai theo cách tiếp cận “bình dân học AI”, thay vì chỉ dừng lại ở các kỹ năng số cơ bản. Trong vòng ba tháng, địa phương đã phổ cập kiến thức AI cho 400.000 người lao động, không theo phương thức tập huấn truyền thống mà hoàn toàn trên nền tảng số.
Người học tham gia khảo sát, học tập, đánh giá và nhận chứng chỉ tự động, phân chia thành 7 cấp độ. Chỉ một số ít đạt cấp cao nhất, còn phần lớn ở cấp độ thấp hơn, qua đó tạo ra động lực học tập liên tục, thay đổi cách tiếp cận nhận thức theo hướng bền bỉ và thực chất, khác với mô hình tập huấn ngắn hạn trước đây.
Về thể chế và hạ tầng, ông Dũng nhấn mạnh: “Luật Khoa học - Công nghệ và Đổi mới sáng tạo (sửa đổi, bổ sung năm 2025) là nền tảng pháp lý căn bản trong thúc đẩy khoa học công nghệ trong phát triển kinh tế - xã hội..
Về hạ tầng, đây là yếu tố quyết định. Ông chỉ rõ, phát triển hạ tầng không chỉ là hạ tầng số, mà trước hết phải bảo đảm hạ tầng năng lượng, nếu không có điện, thì không thể nói tới AI hay chuyển đổi số. Tiếp đó là hạ tầng giao thông, hạ tầng viễn thông, hạ tầng vật lý số (hạ tầng để số hóa thế giới), hạ tầng dữ liệu và tính toán AI giá rẻ, cùng hệ thống phòng thí nghiệm, trung tâm nghiên cứu.
Hiện Việt Nam vẫn thiếu các trung tâm tính toán AI, vì vậy nhiều địa phương như Hà Nội, Đà Nẵng, TP Hồ Chí Minh đang cùng phối hợp thúc đẩy xây dựng các trung tâm dữ liệu AI, nhằm cung cấp năng lực tính toán rẻ và mạnh cho cộng đồng doanh nghiệp. Đây sẽ là điều kiện then chốt để nuôi dưỡng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo.
Liên quan đến nhân lực, theo ông Nguyễn Huy Dũng, nguồn nhân lực là yếu tố cốt lõi. Ngay trước mắt, cần thu hút chuyên gia giỏi từ bên ngoài; về trung hạn và dài hạn, phải phát triển đội ngũ nhân lực trong nước, đặc biệt là nhân lực STEM. Tuy nhiên, hiện nay tỷ lệ sinh viên Việt Nam theo học các ngành STEM lại ở mức thấp nhất trong số các quốc gia có tham vọng phát triển công nghệ. Nếu không thay đổi xu hướng này, chắc chắn đất nước sẽ gặp khó khăn trong trung và dài hạn.
“Cần khơi dậy niềm đam mê khoa học trong thế hệ trẻ. Làm cho học sinh, sinh viên yêu thích khoa học, công nghệ, coi đây là lựa chọn nghề nghiệp hấp dẫn. Kể cả với các ngành khác như y, dược, nông nghiệp, tài chính, thì người học cũng cần coi khoa học công nghệ là công cụ không thể thiếu để tạo lợi thế cạnh tranh”, ông Nguyễn Huy Dũng đề nghị.
Ông chia sẻ, tại Đại học Thái Nguyên đã thí điểm đưa công nghệ vào mọi ngành đào tạo: từ nông nghiệp gắn với chế biến chè, cho đến các lĩnh vực đặc thù khác, qua đó giúp sinh viên hiểu rằng không có ngành nào đứng ngoài khoa học công nghệ.
Triển khai Nghị quyết 57, Đảng và Chính phủ và cơ quan hữu quan đã có gần 700 văn bản liên quan nhưng có 2 kế hoạch chính: Kế hoạch 01 liên quan thực hiện công nghệ chiến lược và Kế hoạch 02 thực hiện Chuyển đổi số trong tất cả các ngành, trong hệ thống chính trị.
Đảng, Chính phủ có 3 định hướng lớn khi thực hiện Nghị quyết 57 gồm: Lựa chọn công nghệ chiến lược, Chính phủ ban hành 11 nhóm công nghệ chiến lược và 35 nhóm sản phẩm.
Nhóm thứ 2 là Chuyển đổi số quốc gia trong Ban Đảng, Chính phủ, Viện Kiểm soát nhân dân tối cao. Mặt trận tổ quốc Việt Nam… Dữ liệu phải “đúng, đủ, sạch, sống”, và dùng chung, liên thông. Mục tiêu là xây dựng một hệ thống thống nhất, dữ liệu duy nhất, tập trung. Nếu một doanh nghiệp có 34 hệ thống và phân mảnh dữ liệu, kiểm soát chất lượng là khó.
Một phương thức xuyên suốt là hợp tác ba nhà: Nhà nước - nhà trường - doanh nghiệp. Nhà nước ban hành cơ chế, đặt hàng bài toán lớn. Nhà trường là nơi đào tạo nhân lực lâu dài và doanh nghiệp là nơi mang tri thức đó vào kinh doanh tạo ra của cải vật chất.
Trong 8 tháng qua, vấn đề thể chế đã được tháo gỡ. Quốc hội đã thông qua 16 luật, điển hình là Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo.... Chính phủ cũng đã ban hành 45 Nghị định.
Chính phủ đưa vào vận hành dữ liệu trên thời gian thực, về thực chất là quản lý trên dữ liệu. Tạo sự chuyển biến căn bản giải quyết thủ tục hành chính trực tuyến trên Cổng Dịch vụ công quốc gia là Cổng duy nhất trên toàn quốc từ 1/7/2025. Nhiều địa phương tích hợp thủ tục hành chính với quản lý điều hành hợp nhất.
Tuy nhiên, thực tiễn nhiều vấn đề cung cấp hành chính công trực tuyến và đang tháo gỡ. Hiện chúng ta tìm hướng đi đúng và có giải pháp hoàn thiện, làm tốt hơn. Sau thời gian sẽ cải thiện tương đối dịch vụ công trực tuyến này.
“Người dân và doanh nghiệp so sánh mong muốn dịch vụ công tốt như dịch vụ ngân hàng. Nhưng thực tế, đầu tư hệ thống dịch vụ công trực tuyến hiện thấp hơn nhiều so với đầu tư nền tảng của ngân hàng. Do đó, việc cải tiến việc này sẽ phải làm dần dần”, ông Nguyễn Huy Dũng cho biết.