FiinRatings đề xuất thành lập quỹ bảo lãnh trái phiếu doanh nghiệp

Đây là một trong những kiến nghị trong tham luận về thị trường trái phiếu doanh nghiệp được ông Nguyễn Quang Thuân, Chủ tịch CTCP FiinRatings gửi tới Diễn đàn Kinh tế - xã hội Việt Nam năm 2023.

Trong tham luận với tựa đề "Giải pháp đột phá phát triển bền vững thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam", Chủ tịch FiinRatings cho biết, thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam (TPDN) đã trải qua một chu kỳ tăng trưởng cao liên tục trong giai đoạn 2012-2021, đặc biệt tập trung vào thời gian 2018-2021 với tốc độ trung bình hàng năm vào khoảng 45%.

Kênh vốn từ TPDN đã trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn quan trọng cho nền kinh tế trước khi suy giảm mạnh từ đầu năm 2023 sau những trước một số sự việc vi phạm của một số tổ chức phát hành và thay đổi chính sách nhằm chuẩn hóa lại điều kiện phát hành cộng với bối cảnh vĩ mô và điều kiện tín dụng không thuận lợi.

Quy mô TPDN đang lưu hành hiện ở mức 923.000 tỷ vào cuối tháng 8 năm 2023, chiếm khoảng 10% GDP năm 2022. Trước đó, tại thời điểm đỉnh cao vào giữa năm 2022, tổng dư nợ TPDN đã đạt quy mô giá trị lưu hành gần 1,5 triệu tỷ đồng, tương đương khoảng 14% GDP năm 2021 và 12% tổng dư nợ tín dụng toàn hệ thống ngân hàng.

Quy mô trái phiếu đã thu hẹp rất mạnh kể từ đầu năm 2022 trở lại đây do những thay đổi môi trường kinh doanh, khuôn khổ pháp lý và chính sách và một số vụ việc làm cho hoạt động phát hành mới suy giảm lớn.

Những vấn đề đặt ra cho thị trường TPDN Việt Nam

Trong tham luận, ông Thuân cũng đã nhìn nhận 4 vấn đề đặt ra cho thị trường TPDN Việt Nam.

Thứ nhất, cơ cấu phát hành chủ yếu là chào bán riêng lẻ. Theo FiinRatings, mặc dù quy mô TPDN lưu hành còn ở mức thấp so với các nước nhưng hơn 95% giá trị phát hành và lưu hành hiện nay là phát hành riêng lẻ vốn mang nhiều bản chất của tín dụng dự án.

Trái phiếu phát hành rộng rãi ra công chúng được kỳ vọng có chất lượng hơn và minh bạch hơn chỉ chiếm rất tỷ trọng rất nhỏ ở mức dưới 5% tổng quy mô phát hành.

Trong khi đó, cơ cấu phát hành chủ yếu tập trung ở một ít số ngành. Trong tổng giá trị trái phiếu riêng lẻ đang lưu hành 923.000 tỷ đồng vào cuối tháng 8/2023, nếu loại trừ 304.000 tỷ đồng trái phiếu do ngân hàng phát hành, dư nợ TPDN riêng lẻ hiện nay tại Việt Nam là 619.000 tỷ đồng, hơn nửa trong số đó là trái phiếu bất động sản (323.000 tỷ đồng, tương đương 52%). Giá trị còn lại gồm thương mại và dịch vụ (13%), sản xuất (8%), và một tỷ lệ nhỏ các nhóm ngành khác.

Như vậy, ngoài các tổ chức phát hành trong ngành bất động sản thì vẫn chưa chứng kiến các tổ chức phát hành trong các ngành khác vốn đòi hỏi thâm dụng vốn lớn hoặc có tuổi đời dự án dài như các dự án cơ sở hạ tầng. Điều này cũng gây ra rủi ro mang tính tập trung lớn cho thị trường và nhà đầu tư.

Thứ hai, nhà đầu tư cá nhân tham gia lớn vào trái phiếu riêng lẻ.

Có thể thấy nhà đầu tư cá nhân tham gia mua trực tiếp thường ở mức thấp và dự kiến sẽ chưa sớm khôi phục mạnh trở lại vào thời gian ngắn hạn khi những quy định chặt chẽ hơn về nhà đầu tư chuyên nghiệp sẽ đi vào hiệu lực từ đầu năm 2024.

Nhưng, FiinRatings cho rằng, đây là hệ quả khi nhà đầu tư cá nhân đã được tiếp cận trái phiếu riêng lẻ một cách dễ dàng khi cơ sở thông tin và quản trị rủi ro tại Việt Nam với xếp hạng tín nhiệm, định giá trái phiếu... vẫn chưa được phổ biến.

Thứ ba, áp lực nợ trái phiếu đáo hạn cao. Tổng giá trị TPDN riêng lẻ đáo hạn trong 2 quý cuối năm 2023 được ước tính ở mức 104.800 tỷ đồng và năm 2024 ở mức 288.100 tỷ đồng và năm 2025 là 194.200 tỷ đồng.

Đối với trái phiếu đáo hạn trong 2 quý cuối năm 2023, giá trị trái phiếu đến hạn của các doanh nghiệp bất động sản là 37.100 tỷ đồng và TCTD là 24.000 tỷ đồng, các doanh nghiệp sản xuất là 1.300 tỷ đồng, các doanh nghiệp thương mại, dịch vụ là 22.400 tỷ đồng và lĩnh vực khác là 20.000 tỷ đồng.

Thứ tư, tỷ lệ nợ xấu trái phiếu tăng cao. Tính đến ngày 30/6/2023, đã có 118 tổ chức phát hành có một hoặc nhiều hơn lô trái phiếu lưu hành đã không thể đáp ứng nghĩa vụ nợ với tổng giá trị 165.000 tỷ đồng, chiếm 11,8 % giá trị TPDN đang lưu hành.

Tuy nhiên, một cách khách quan, tỷ lệ chậm trả tiếp tục gia tăng, Nghị định 08 ra đời đã hỗ trợ các tổ chức phát hành kịp thời tái cơ cấu nợ trong thời gian tối đa 2 năm, đây là động thái tích cực từ phía cơ quan quản lý để giúp các tổ chức phát hành có thời gian điều chỉnh và vượt qua giai đoạn khó khăn nhất.

Thành lập quỹ bảo lãnh trái phiếu góp phần quản trị rủi ro bảo lãnh tốt hơn

Từ bối cảnh trên, tham luận của ông Thuân đã đưa ra các đề xuất nhằm khôi phục thị trường trái phiếu doanh nghiệp qua các giải pháp chính như: cải thiện minh bạch thông tin thị trường khôi phục niềm tin vào kênh đầu tư dài hạn này. Rà soát và tháo gỡ những quy định về hạn chế đầu tư nhằm "tạo cầu" cho sản phẩm đầu tư trái phiếu.

Đẩy mạnh kênh phát hành chào bán rộng rãi ra công chúng qua việc áp dụng phê duyệt nhanh dành cho các doanh nghiệp niêm yết và trái phiếu được xếp hạng tín nhiệm cao.

Tiếp tục hoàn thiện nền tảng cứng và mềm cho thị trường, bao gồm việc hình thành tổ chức bảo lãnh thanh toán trái phiếu.

Ban hành khung chính sách cho sản phẩm trái phiếu xanh nhằm tận dụng nguồn vốn trong nước và quốc tế cho phát triển bền vững...

Ông Thuân đề xuất về việc xem xét thành lập quỹ bảo lãnh trái phiếu doanh nghiệp.

Theo vị chuyên gia này, Việt Nam hiện thiếu các định chế tài chính trung gian trong đó có nghiệp vụ bảo lãnh tín dụng hoặc bảo lãnh trái phiếu. Khác với bảo lãnh phát hành, bảo lãnh tín dụng hay bảo lãnh trái phiếu được hiểu là bảo lãnh thanh toán, tức là bên đứng ra bảo lãnh sẽ thực hiện cam kết thanh toán một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ nợ của tổ chức phát hành trong trường hợp rủi ro xảy ra tức là tổ chức phát hành không thể thực hiện nghĩa vụ nợ đã cam kết.

Hiện trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp đã có một số lô trái phiếu bảo lãnh thanh toán bởi ngân hàng thương mại và phần còn lại chủ yếu là bảo lãnh doanh nghiệp được thực hiện bởi công ty trong cùng một tập đoàn đối với tổ chức phát hành TPDN.

"Nếu được thành lập, quỹ bảo lãnh này không chỉ giới hạn ở các trái phiếu của các ngân hàng thương mại mà cả trái phiếu của các doanh nghiệp (không phải là tổ chức tín dụng) với những tiêu chí nhất định về chất lượng tín dụng hoặc mức xếp hạng tín nhiệm", ông Thuân cho hay.

Việc thiết lập một định chế bảo lãnh như vậy sẽ góp phần quản trị rủi ro bảo lãnh tốt hơn với quy chế hoạt động, phạm vi bảo lãnh, điều kiện và tiêu chí bảo lãnh, quy trình quản trị rủi ro cũng như cơ chế xử lý nợ xấu khi sự kiện nợ xảy ra.

Vai trò của định chế cung cấp dịch vụ bảo lãnh này là nhằm tạo chất xúc tác và niềm tin để các nhà đầu tư tham gia mua các trái phiếu có kỳ hạn dài và được các tổ chức bảo lãnh uy tín cao như vậy đảm bảo nghĩa vụ thanh toán (toàn bộ hoặc từng phần) khi rủi ro xảy ra. Đây là định chế rất tốt để kích thích phát triển cơ chế đầu tư và đưa dòng tiền nhàn rỗi của người dân và doanh nghiệp vào kênh đầu tư dài hạn thay vì chỉ tập trung gửi tại ngân hàng.

Ngoài ra, các tiêu chí để được bảo lãnh có thể bao gồm việc ưu tiên các trái phiếu có kỳ hạn dài (năm năm trở lên) nhằm kích thích chức năng đầu tư của thị trường vốn và có các cấu phần hỗ trợ cho tăng trưởng xanh theo các quy định về phân loại xanh (đang được dự thảo) nhằm góp phần thực hiện mục tiêu phát triển thị trường trái phiếu xanh tại Việt Nam và qua đó hướng tới việc thực hiện cam kết phát thải ròng bằng 0 của Việt Nam.

Kiều Chinh

Nguồn Mekong Asean: https://mekongasean.vn/fiinratings-de-xuat-thanh-lap-quy-bao-lanh-trai-phieu-doanh-nghiep-post27123.html