Dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi): cần chú trọng đến chế độ thai sản cho lao động nữ

Luật Bảo hiểm xã hội (BHXH) liên quan đến đông đảo người lao động, trong đó có nữ giới. Những quy định đảm bảo bình đẳng giới, nhất là chế độ thai sản, hưu trí, BHXH một lần liên quan rất lớn đến nữ là rất quan trọng.

Lao động nữ còn nhiều thiệt thòi về vấn đề quyền lợi. Ảnh: Công đoàn Dệt May Việt Nam

Lao động nữ còn nhiều thiệt thòi về vấn đề quyền lợi

Theo Báo cáo về lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong Dự án Luật BHXH sửa đổi của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cho thấy: ở tuổi 65 chỉ còn 16% phụ nữ hưởng lương hưu; trong khi nam giới là 27,3%. Tuổi 80, nữ 6,9%; nam giới là 25,9%. Giá trị lương hưu của nam giới cao hơn nữ giới 19,8%. Tiền lương theo tháng của lao động nữ thấp hơn lao động nam 30% vào năm 2019.

Những năm gần đây chênh lệch này đang tăng dần lên, và khoảng cách này không tự điều chỉnh được. Mặc dù giai đoạn mới tham gia thị trường lao động, phụ nữ tham gia BHXH khá tốt, ở tuổi 26 đạt 58%. Điều này chứng tỏ phụ nữ sớm quan tâm đến hệ thống bảo hiểm.

Tuy nhiên khoảng cách giới trong thụ hưởng chế độ BHXH càng lớn xuất phát từ việc phụ nữ rút bảo hiểm trong giai đoạn mang thai, sinh con và nuôi con nhỏ.

Theo Tổ chức Lao động quốc tế ILO có 69% phụ nữ rút BHXH 1 lần dưới 35 tuổi. Do phụ nữ thực hiện thiên chức mang thai, sinh con; cùng với đó, 2/3 phụ nữ đảm nhiệm việc chăm sóc gia đình, trẻ em, người già, người bệnh những công việc không trả công. Đây là sự khác biệt giới. Thực tế này buộc không ít phụ nữ phải lựa chọn rút khỏi hệ thống bảo hiểm.

Vì vậy, cần có những chính sách khác biệt để tạo điều kiện hỗ trợ nữ giới khỏa lấp những khoảng trống khác biệt giới mang lại, nhằm rút ngắn khoảng cách trong thụ hưởng BHXH giữa phụ nữ và nam giới.

Hơn nữa chế độ thai sản ở Việt Nam “chứa đựng” trong đó là ý nghĩa nhân văn. Tuy nhiên hiện mới có khoảng 30% lao động nữ trong hệ thống BHXH bắt buộc được thụ hưởng chế độ này; Đồng nghĩa phần lớn phụ nữ lao động tự do đang đứng trước những gánh nặng gia tăng khi họ sinh con.

Trao đổi về các vấn đề liên quan trong Dự thảo Luật BHXH (sửa đổi) tại Hội thảo “Đóng góp ý kiến vào Dự thảo Luật BHXH tiếp cận dưới góc độ quyền lợi của lao động nữ” diễn ra vào ngày 27/3 vừa qua, TS. Bùi Sỹ Lợi - nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội của Quốc hội cho biết: “Mức hưởng 2 triệu đồng cho một con khi sinh, bao gồm cả trường hợp con bị chết hoặc chết lưu quá thấp. Đề nghị cơ quan soạn thảo nâng mức hỗ trợ này”.

Nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban xã hội của Quốc hội phân tích về đề xuất này như sau: theo Tờ trình số 527 của Chính phủ về dự thảo Luật BHXH mức 2 triệu là theo Nghị định 39/2015 của Chính phủ quy định chính sách hỗ trợ cho phụ nữ thuộc hộ nghèo là người dân tộc thiểu số sinh con đúng chính sách dân số. Nhưng Nghị định này đã được thay thế tại điều 36 Thông tư 55 của Bộ tài chính ngày 15/8/2023 áp dụng cho Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Như vậy, quy định 2 triệu cho mức hỗ trợ này không còn phù hợp.

Ngoài ra, chế độ thai sản ngoài hỗ trợ về tiền mặt, cơ quan soạn thảo cần cân nhắc bổ sung chế độ chăm sóc sức khỏe, khám thai định kỳ.

Hiện nay, chế độ BHXH tự nguyện chưa thực sự thu hút, bổ sung chế độ thai sản phù hợp cũng là điều kiện cần thiết để thu hút lao động trong độ tuổi tham gia.

Cần cân nhắc bổ sung thêm chế độ cho lao động nữ trong thai kỳ

Theo tiêu chuẩn quốc tế, phụ nữ cần được nghỉ thai sản ít nhất 14 tuần thì mức này chỉ tương đương 145.000 đồng/tuần, tức là khoảng 600.000 đồng/tháng, chỉ bằng 40% mức chuẩn nghèo khu vực nông thôn.

TS Bùi Sỹ Lợi cho rằng cơ quan soạn thảo cần cân nhắc bổ sung nhiều chế độ cho lao động nữ trong thai kỳ. Ảnh: Hải Nguyễn

Thực tiễn thời gian qua, Nhà nước đã có chính sách hỗ trợ cho phụ nữ là người dân tộc thiểu số thuộc hộ nghèo, cư trú tại các đơn vị hành chính thuộc vùng khó khăn khi sinh con đúng chính sách dân số. Do đó, đề xuất mức hưởng chế độ thai sản tối thiểu cho người lao động tham gia BHXH tự nguyện (bao gồm cả lao động nữ và lao động nam) là 1,5 triệu đồng/tháng (mức chuẩn nghèo nông thôn) trong 14 tuần (3,5 tháng) là phù hợp và vẫn giữ chính sách hỗ trợ cho phụ nữ thuộc hộ nghèo là người dân tộc thiểu số khi sinh con đúng chính sách dân số.

Đồng thời, theo Công ước 183 của Tổ chức lao động quốc tế ILO chế độ thai sản nên được áp dụng cho tất cả phụ nữ kể cả những người làm việc trong điều kiện không chính thức. Bên cạnh đó, tại khoản 2, Điều 7, Luật Bình đẳng giới năm 2006 quy định Chính sách của Nhà nước về bình đẳng giới bảo vệ, hỗ trợ người mẹ khi mang thai, sinh con và nuôi con nhỏ. Đề nghị cơ quan soạn thảo nghiên cứu xây dựng chế độ thai sản đa tầng, bổ sung chế độ hỗ trợ đối với phụ nữ nghèo, khuyết tật và tiến tới bao phủ chế độ hỗ trợ thai sản cho mọi đối tượng phụ nữ.

Đi vào một số điều khoản cụ thể, TS. Bùi Sỹ Lợi cũng đưa ra các đề xuất như:

Khoản 1 Điều 48: “Trong thời gian mang thai, lao động nữ được nghỉ việc để đi khám thai tối đa 5 lần. Thời gian nghỉ việc hưởng chế độ khi khám thai tối đa là 2 ngày cho 1 lần khám thai”. Đề nghị quy định số lần khám thai cho lao động nữ tối thiểu 5 lần. Đối với trường hợp có chỉ định của cán bộ y tế có thẩm quyền, người lao động có thể khám thai nhiều hơn 5 lần để đảm bảo sự phát triển bình thường của thai nhi.

Về Điểm a, Khoản 3 Điều 51: đề nghị tăng thời gian nghỉ thai sản cho người mẹ mang thai hộ kể từ ngày sinh đến thời điểm giao đứa trẻ cho người mẹ nhờ mang thai hộ từ 60 ngày lên 4 tháng (hoặc có thể cho nghỉ 2 tháng) để đảm bảo phục hồi sức khỏe cho người mẹ mang thai hộ giống như trường hợp khi sinh con dưới 2 tháng tuổi mà con mất thì người mẹ được nghỉ thai sản 4 tháng.

Về Điểm a khoản 2 Điều 57: cần cân nhắc thời gian người lao động đi làm trước khi hết thời hạn nghỉ sinh con nếu quy định người lao động chỉ được đi làm khi con đã được ít nhất 4 tháng tuổi thay vì người lao động đã nghỉ hưởng chế độ ít nhất 4 tháng như trước đây (nghĩa là người lao động có thể đi làm khi con được ít nhất 2 tháng tuổi vì đã nghỉ 2 tháng trước khi sinh). Trên thực tế nhiều người lao động do yêu cầu công việc hoặc do nhu cầu gia tăng thu nhập đã xin đi làm sớm, vì vậy nếu không có vướng mắc thì giữ như luật hiện hành để hài hòa giữa đảm bảo sức khỏe người lao động và trẻ em với việc gia tăng thu nhập cho người lao động.

Về Khoản 1 Điều 60: Quy định thời gian nộp hồ sơ hưởng chế độ thai sản đối với người tham gia BHXH bắt buộc không quá 45 kể từ ngày hết thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản là quá chậm, không kịp thời chi trả và bù đắp thu nhập cho người lao động khi họ sinh con. Vì vậy đề nghị xem xét quy định thời gian nộp hồ sơ của người lao động được tính kể từ ngày sinh con để tạo điều kiện cho người lao động đề nghị giải quyết chế độ thai sản sớm.

Thái Phương - Hải Yến

Nguồn PL&XH: https://phapluatxahoi.kinhtedothi.vn//du-thao-luat-bao-hiem-xa-hoi-sua-doi-can-chu-trong-den-che-do-thai-san-cho-lao-dong-nu-375322.html