Đại tướng Nguyễn Tân Cương: Cần thiết ban hành Luật Tình trạng khẩn cấp

Đại tướng Nguyễn Tân Cương, Tổng Tham mưu trưởng QĐND Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng nhấn mạnh điều này khi thừa ủy quyền trình bày Tờ trình của Chính phủ về dự án Luật Tình trạng khẩn cấp, tại Phiên họp 43 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Chính phủ cho biết, Luật Tình trạng khẩn cấp quy định về nguyên tắc, trình tự, thủ tục, thẩm quyền ban bố, công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp; các biện pháp được áp dụng trong tình trạng khẩn cấp; tổ chức thi hành Nghị quyết ban bố, Lệnh công bố tình trạng khẩn cấp; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong tình trạng khẩn cấp.

Bên cạnh cơ sở pháp lý, đề cập cơ sở thực tiễn, Thứ trưởng Nguyễn Tân Cương cho biết, việc ban hành Luật Tình trạng khẩn cấp nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập của pháp luật về tình trạng khẩn cấp như: Về khái niệm tình trạng khẩn cấp để phân biệt với tình huống cấp bách; về hình thức văn bản; thẩm quyền quy định về tình trạng khẩn cấp và ban bố, công bố tình trạng khẩn cấp; về các chính sách cứu trợ, hỗ trợ nhằm ứng phó trong tình trạng khẩn cấp, bảo đảm an sinh xã hội, phục hồi kinh tế…

Đại tướng Nguyễn Tân Cương

Đại tướng Nguyễn Tân Cương

Chính phủ thông tin, kể từ khi có Pháp lệnh Tình trạng khẩn cấp và một số luật chuyên ngành có quy định về tình trạng khẩn cấp, nước ta chưa từng ban bố tình trạng khẩn cấp.

Ngay trong giai đoạn chống dịch COVID-19, mặc dù chưa ban bố tình trạng khẩn cấp nhưng một số biện pháp tương tự như biện pháp của tình trạng khẩn cấp lại được áp dụng để ứng phó với dịch.

Quá trình chống dịch COVID-19 đã mang lại nhiều bài học kinh nghiệm, đồng thời cũng bộc lộ những hạn chế, bất cập trong tổ chức thực hiện pháp luật về tình trạng khẩn cấp như: Cùng những tình huống xảy ra, với mức độ như nhau nhưng việc áp dụng các biện pháp chưa thống nhất giữa các địa phương; cấp có thẩm quyền chưa ban bố tình trạng khẩn cấp nhưng có địa phương đã ban hành các văn bản hành chính hạn chế quyền con người, quyền công dân; quy trình, thủ tục mua sắm trang thiết bị vật chất, công tác bảo đảm hoạt động khi có tình huống còn lúng túng.

Trong điều kiện lần đầu tiên xảy ra đại dịch lớn đã phát sinh nhiều tình huống khó khăn, vướng mắc, bất cập cần phải giải quyết ngay; trong đó có nhu cầu phải trao quyền chủ động hơn, mạnh mẽ hơn cho Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ để quyết định kịp thời các biện pháp cần thiết, linh hoạt đáp ứng yêu cầu của công tác phòng, chống, ngăn chặn, kiểm soát dịch bệnh.

Bên cạnh đó, tình hình thiên tai có xu thế ngày càng gia tăng, diễn biến bất thường, trái quy luật, gây ra những hậu quả nghiêm trọng, làm gia tăng các tình huống khẩn cấp về sự cố, thảm họa, đòi hỏi các quốc gia phải có các biện pháp ứng phó khẩn cấp.

Việt Nam là 1 trong 5 quốc gia chịu ảnh hưởng nghiêm trọng nhất từ biến đổi khí hậu; dịch bệnh nguy hiểm xảy ra thường xuyên với mức độ cao hơn…

“Từ những cơ sở trên, việc xây dựng, ban hành Luật Tình trạng khẩn cấp là cần thiết để hoàn thiện hành lang pháp lý, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật, đáp ứng yêu cầu thực tiễn”, Đại tướng Nguyễn Tân Cương nói.

Dự thảo luật đã cụ thể hóa 2 chính sách được thông qua trong giai đoạn lập đề nghị xây dựng dự án luật. Trong đó chính sách 1 về biện pháp áp dụng trong tình trạng khẩn cấp, thẩm quyền tổ chức, chỉ đạo, điều hành và quyết định áp dụng các biện pháp đặc biệt của một số chủ thể trong tình trạng khẩn cấp;

Chính sách 2 là các biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp; cứu trợ, hỗ trợ người dân ứng phó trong và sau tình trạng khẩn cấp.

Thẩm tra sơ bộ nội dung này, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng – An ninh – Đối ngoại Lê Tấn Tới cho biết thường trực ủy ban nhất trí về sự cần thiết ban hành .uật với những căn cứ chính trị, pháp lý, thực tiễn như đã nêu trong Tờ trình của Chính phủ.

Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng – An ninh – Đối ngoại Lê Tấn Tới

Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng – An ninh – Đối ngoại Lê Tấn Tới

Cơ quan thẩm tra thấy rằng việc ban hành luật này nhằm thể chế hóa đường lối chủ trương của Đảng về hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về phòng, chống, khắc phục thảm họa, sự cố; đảm bảo phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 2013 về quyền con người, quyền công dân.

Cạnh đó, việc ban hành luật nhằm kịp thời khắc phục những bất cập, hạn chế trong thực tiễn thi hành pháp luật về tình trạng khẩn cấp, nhất là từ khi diễn ra đại dịch COVID-19.

Cũng theo ông Lê Tấn Tới, một số ý kiến cho rằng, dự thảo luật có liên quan đến nhiều quy định tại các luật hiện hành về tình trạng khẩn cấp, vì vậy, đề nghị cơ quan soạn thảo tiếp tục rà soát, làm rõ mối quan hệ pháp luật, phân định cụ thể phạm vi điều chỉnh giữa luật này và các luật liên quan, hoàn thiện quy định về tình trạng khẩn cấp, đảm bảo tính thống nhất trong hệ thống pháp luật, trong đó có các luật mới được Quốc hội thông qua.

Thường trực ủy ban cơ bản tán thành với quy định ủy quyền cho Thủ tướng Chính phủ trong trường hợp cần thiết, Thủ tướng Chính phủ có thể áp dụng các biện pháp mà pháp luật hiện hành chưa quy định. Tuy nhiên, để bảo đảm bảo phù hợp với Hiến pháp, đề nghị bổ sung nội dung các biện pháp này phải phù hợp với các nguyên tắc quy định tại trong luật, đồng thời cần tiếp tục làm rõ thêm về thời điểm hiệu lực, đối tượng, các biện pháp đặc thù này để bảo đảm khả thi.

Có ý kiến đề nghị quy định về “Đội tuần tra đặc biệt thuộc các lực lượng Công an, Quân đội và Dân quân tự vệ” có thẩm quyền khám người, phương tiện, nơi ở, đồ vật, tạm giữ người, phương tiện, tang vật gây nguy hại cho an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội trong tình trạng khẩn cấp cần phải được nghiên cứu, quy định phù hợp và thống nhất với quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Phó Chủ tịch Quốc hội Trần Quang Phương nêu rõ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhất trí với sự cần thiết ban hành luật, cơ bản nhất trí nhiều nội dung dự thảo. Dự thảo đủ điều kiện để trình Quốc hội xem xét cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 9.

Hiếu MinhVOV.VN

Nguồn VOV: https://vov.vn/chinh-tri/dai-tuong-nguyen-tan-cuong-can-thiet-ban-hanh-luat-tinh-trang-khan-cap-post1161219.vov