Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị trên địa bàn tỉnh đồng nai
Đổi mới phương thức lãnh đạo là một trong những nhóm nhiệm vụ, giải pháp rất quan trọng nhằm không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới.
Nhìn lại 15 năm, thực hiện Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 30-7-2007 của Ban Chấp hành Trung Đảng khóa X về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị, việc ban hành chủ trương, nghị quyết của Đảng đã bám sát thực tiễn, phát huy dân chủ, gắn với xây dựng kế hoạch và chỉ đạo tổ chức thực hiện quyết liệt. Phong cách, lề lối làm việc của nhiều cơ quan lãnh đạo từ tỉnh đến cơ sở được đổi mới theo hướng bám sát thực tiễn, sâu sát cơ sở…
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được vẫn còn những vấn đề cần phải giải quyết, đó là: “Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị còn chậm đổi mới, có mặt còn lúng túng”. Biểu hiện là: cơ chế kiểm soát quyền lực chưa đầy đủ, đồng bộ, hiệu lực, hiệu quả chưa cao; công tác thể chế hóa, cụ thể hóa chưa đầy đủ, chưa kịp thời thành pháp luật của Nhà nước về một số chủ trương, nghị quyết của Đảng; việc ban hành nghị quyết của một số tổ chức Đảng chưa sát thực tiễn, thiếu tính khả thi; trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện một số nghị quyết chưa nghiêm, hiệu quả thấp; vẫn còn tình trạng bao biện làm thay hoặc buông lỏng lãnh đạo của một số tổ chức Đảng; còn có mặt hạn chế trong công tác giáo dục, thuyết phục nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước; một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa thật sự tiên phong, gương mẫu...
Từ tình hình thực tế trên, tác giả tham gia đóng góp một số ý kiến trong việc thực hiện “Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị trên địa bàn tỉnh và đề ra một số giải pháp hiệu quả góp phần nâng cao hơn nữa năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng để lãnh đạo đất nước nói chung tỉnh Đồng Nai nói riêng phát triển nhanh và bền vững trên con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Có thể nói, qua quá trình lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức triển khai, thực hiện các Nghị quyết, Tỉnh ủy Đồng Nai xác định rõ việc xây dựng nghị quyết cần được thực hiện theo nguyên tắc chỉ ban hành nghị quyết khi thật sự cần thiết. Vì vậy, ở mỗi nhiệm kỳ, Tỉnh ủy lựa chọn một số nội dung, lĩnh vực quan trọng, những vấn đề nảy sinh từ thực tiễn, có ý nghĩa chiến lược đối với hoạt động của Đảng bộ để xây dựng, ban hành nghị quyết. Quy trình xây dựng nghị quyết được cấp ủy các cấp đổi mới theo hướng lắng nghe và tiếp thu ý kiến từ thực tiễn của từng địa phương, đơn vị, phát huy tính dân chủ, trí tuệ tập thể.
Việc cải tiến khâu tổ chức thực hiện nghị quyết theo hướng tập trung, kiên quyết và dứt điểm đó cũng là một hình thức mới. Nhằm rút kinh nghiệm bổ cứu cho quá trình chỉ đạo tiếp theo, Ban TVTU đã lãnh đạo, chỉ đạo các cấp ủy, tổ chức Đảng trực thuộc tỉnh phải cụ thể hóa thành các chương trình, kế hoạch triển khai thực hiện tại địa phương, đơn vị. Định kỳ tổ chức sơ kết, tổng kết việc thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, kết luận… hình thức triển khai nghị quyết bằng việc tổ chức các hội thảo khoa học cấp tỉnh do Thường trực Tỉnh ủy trực tiếp chủ trì cũng được đổi mới. Có thể thấy, triển khai nghị quyết bằng việc tổ chức các hội thảo khoa học tuy là cách làm mới nhưng đem lại hiệu quả rất tích cực.
Đổi mới lề lối, tác phong công tác là một yêu cầu mà Ban TVTU và cấp ủy các cấp luôn thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; chú trọng chỉ đạo xây dựng quy chế làm việc và luôn đảm bảo nguyên tắc hoạt động theo đúng quy chế. Việc xây dựng Quy chế đã có những đổi mới quan trọng: Quy định rõ hơn trách nhiệm, quyền hạn của tập thể và cá nhân lãnh đạo, mối quan hệ công tác và sự lãnh đạo của Tỉnh ủy đối với các cơ quan nhà nước, MTTQ và các đoàn thể quần chúng. Trong lãnh đạo, chỉ đạo đã có nhiều cải tiến theo hướng sâu sát, gần dân, phát huy dân chủ với nhiều cách làm cụ thể: Ban TVTU thành lập các đoàn công tác trực tiếp chỉ đạo, kiểm tra, giám sát tại các địa phương, cơ sở để kịp thời nắm bắt tình hình và có những chỉ đạo xử lý kịp thời các vướng mắc ở cơ sở; phân công các đồng chí Tỉnh ủy viên phụ trách các tổ chức Đảng trực thuộc, định kỳ dự sinh hoạt Đảng với chi bộ khu dân cư. Từ đó, kịp thời lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của đảng viên và nhân dân, nắm bắt tình hình dư luận tại cơ sở, nắm bắt việc ban hành nghị quyết thực hiện nhiệm vụ chính trị của từng loại hình chi bộ.
Trong công tác tổ chức, cán bộ được Ban TVTU và các cấp ủy địa phương rất quan tâm thông qua công tác cán bộ là đội ngũ cán bộ cơ quan Đảng, nhà nước phải có số lượng hợp lý, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có trình độ, phẩm chất, năng lực nổi trội, có tâm huyết. bám sát các nghị quyết, quy định, chỉ thị, hướng dẫn của Trung ương, nhất là những điểm mới, những nội dung sửa đổi, bổ sung so với quy định trước đây đều được nghiên cứu sâu để cụ thể hóa cho phù hợp với tình hình thực tế của tỉnh, Ban TVTU luôn chỉ đạo đổi mới và không ngừng nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo hướng gắn với quy hoạch, bố trí cán bộ. Nhờ đó, công tác quản lý và bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử được thực hiện ngày càng nền nếp, đảm bảo dân chủ, trách nhiệm của tập thể và người đứng đầu đối với công tác cán bộ, xác định rõ trách nhiệm của các cấp, các ngành, địa phương… tạo sự thống nhất trong quản lý và sử dụng cán bộ.
Công tác kiểm tra, giám sát (KT-GS) và kỷ luật Đảng trong những năm qua, cấp ủy, Ủy ban kiểm tra các cấp thường xuyên quan tâm đổi mới nội dung, phương pháp KT-GS. Trước hết là đổi mới việc ban hành văn bản lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện, đặc biệt là Ban hành Kế hoạch về Tăng cường kỷ luật, kỷ cương, nêu cao tính tiền phong gương mẫu của đảng viên và trách nhiệm của người đứng đầu ở các cấp ủy, chính quyền, các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể chính trị - xã hội các cấp. Có thể nói Công tác KT-GS và thi hành kỷ luật Đảng đã góp phần chấn chỉnh, uốn nắn, xử lý kịp thời những vi phạm, ngăn ngừa suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, góp phần giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ tỉnh.
Như chúng ta đã biết, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng là quá trình cần tiếp tục hoàn thiện, đổi mới đưa những chủ trương vào cuộc sống thông qua đội ngũ cán bộ, thông qua tuyên truyền, qua kiểm tra giám sát, đảm bảo sự lãnh đạo toàn diện của Đảng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới. Để đạt hiệu quả trong việc tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị trên địa bàn tỉnh Đồng Nai nói riêng, cả nước nói chung cần quán triệt, thực hiện đồng bộ một số nội dung, giải pháp sau:
Một là, đổi mới, nâng cao chất lượng việc xây dựng, ban hành nghị quyết của các cấp ủy Đảng. Các cấp ủy Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, lãnh đạo toàn xã hội trước hết bằng các nghị quyết của Đảng. Những quan điểm, đường lối lớn, lâu dài được Đảng ta thông qua trong Cương lĩnh chính trị. Đây là đường lối đúng đắn, nhất quán để lãnh đạo đất nước. Để nghị quyết trở thành thực tiễn, Ban Chấp hành Trung ương các khóa gần đây, nhất là khóa XII quyết định chỉ ra những nghị quyết thật cần thiết nên số lượng giảm rõ rệt.
Tuy nhiên, trong thực tế, số lượng nghị quyết của các tổ chức Đảng ban hành vẫn còn nhiều. Ngoài nghị quyết của Trung ương còn có nghị quyết của tỉnh, huyện ủy, đảng ủy trực thuộc, nghị quyết của huyện ủy, thành ủy, đảng ủy xã, phường, thị trấn… Việc có nhiều nghị quyết dẫn đến công tác quán triệt, học tập đến đảng viên thiếu sâu sắc, đặc biệt tổ chức thực hiện nhiều nơi hiệu quả không cao.
Để khắc phục tình hình trên, cần đổi mới mạnh mẽ việc xây dựng, ban hành nghị quyết của Đảng. Mỗi nhiệm kỳ đại hội Đảng cần đầu tư cao hơn, cụ thể hơn nghị quyết đại hội. Nghị quyết cần định hướng rõ cho các lĩnh vực kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh và xây dựng Đảng cho toàn khóa. Hằng năm, Trung ương và cấp ủy các cấp chỉ ban hành kế hoạch kiểm tra việc tổ chức thực hiện nghị quyết. Mỗi kỳ họp Trung ương và các cấp ủy chỉ nêu ra một kết luận kỳ họp yêu cầu các tổ chức Đảng thực hiện. Trường hợp đặc biệt, khi tình hình thế giới, trong nước có những vấn đề lớn phát sinh chưa dự báo được thì có thể ra nghị quyết để lãnh đạo.
Nội dung nghị quyết hoặc kết luận cần thiết thực, ngắn gọn, khả thi, phải tính đến cân đối các nguồn lực và điều kiện bảo đảm triển khai thực hiện có hiệu quả, phân công rõ trách nhiệm tổ chức, cá nhân, thời gian hoàn thành các nhiệm vụ, giải pháp được ghi trong Nghị quyết. Đổi mới việc xây dựng, ban hành và nâng cao chất lượng các nghị quyết của Đảng; khắc phục tình trạng ban hành nghị quyết chưa sát thực tiễn, thiếu tính khả thi.
Đây là nội dung rất quan trọng, góp phần đưa nghị quyết của Đảng thực sự đi vào cuộc sống; do đó, quá trình tiến hành cần chú trọng những vấn đề sau: Lựa chọn đúng chủ đề để xây dựng nghị quyết. Thông thường, nội dung này sẽ sớm được đề ra cho chương trình toàn khóa của cấp ủy; ngoài chương trình toàn khóa, trong thực tiễn có thể nảy sinh những vấn đề mới, Đảng cần nhanh nhạy nắm bắt, kịp thời nghiên cứu để xây dựng nghị quyết.
Trên cơ sở ý kiến của cấp ủy, đội ngũ chuyên gia nghiên cứu một cách kỹ lưỡng, sâu sắc cả cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn để đưa ra dự thảo nghị quyết bảo đảm có chất lượng. Trình bày nội dung phải vừa sát hợp đáp ứng đúng yêu cầu hoạt động thực tiễn của Đảng, phải vừa phổ thông, dễ hiểu, súc tích, dễ triển khai; đồng thời, tránh sao chép giữa nghị quyết tổ chức Đảng cấp dưới với cấp trên và giữa các tổ chức Đảng với nhau.
Trong sinh hoạt Đảng, việc thảo luận các vấn đề được tiến hành trước hết là trong thường vụ, thường trực, sau đó là toàn thể cấp ủy và cuối cùng là hội nghị toàn thể, hoặc hội nghị đại biểu đảng viên. Tất cả các cuộc thảo luận trong Đảng phải kết thúc bằng việc biểu quyết thông qua, trở thành nghị quyết; Ban hành nghị quyết phải kịp thời, đúng đối tượng, đúng địa chỉ.
Hai là, đổi mới việc lãnh đạo, chỉ đạo quán triệt, sơ kết, tổng kết nghị quyết và thể chế hóa nghị quyết để tổ chức thực hiện.
Căn cứ vào từng đối tượng đảng viên và đặc điểm tình hình của các Đảng bộ để có hướng dẫn việc học tập, quán triệt nghị quyết có hiệu quả. Trong học tập, quán triệt nghị quyết, dành nhiều thời gian hỏi - đáp cho đảng viên. Phân công báo cáo viên là những người có kiến thức, trình độ nhận thức sâu sắc nghị quyết và có phương pháp, kinh nghiệm truyền đạt để người học dễ nghe, dễ hiểu, dễ vận dụng sáng tạo nghị quyết vào thực tế cuộc sống.
Việc xây dựng và ban hành văn bản pháp luật phải tiến hành đồng bộ, hạn chế thấp nhất việc ban hành luật phải chờ nghị định, nghị định phải chờ thông tư hướng dẫn.
Công tác sơ kết, tổng kết nghị quyết rất cần thiết, góp phần quan trọng tiếp tục đưa nghị quyết vào cuộc sống. Qua sơ kết, tổng kết để đánh giá, kiểm điểm những việc đã làm được nhằm tiếp tục làm tốt hơn, những việc làm chậm, làm chưa tốt phải làm rõ nguyên nhân để lãnh đạo, chỉ đạo làm có kết quả. Việc sơ kết, tổng kết đều phải làm từ cơ sở lên Trung ương và sau sơ kết, tổng kết đều ban hành kết luận kịp thời để tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo nghị quyết đó.
Ba là, đổi mới công tác kiểm tra góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả thực hiện nghị quyết.
Thực tế công tác kiểm tra, giám sát của Đảng vẫn còn không ít những khó khăn, hạn chế. Một số nơi đội ngũ cán bộ kiểm tra vừa thiếu về số lượng, chưa được trang bị đầy đủ kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm trong công tác. Một số cấp ủy chưa thực sự quan tâm lãnh đạo, thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát. Do vậy, việc đổi mới để nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của Đảng là cần thiết nhằm góp phần tích cực giữ vững kỷ luật, kỷ cương của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức Đảng.
Để thực hiện có kết quả, trước hết cần quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra, từ tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch, luân chuyển, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ kiểm tra các cấp bảo đảm có trình độ chuyên môn cao về nhiều lĩnh vực. Đồng thời, phải nắm vững và vận dụng tốt nguyên tắc tổ chức của Đảng, phương pháp công tác Đảng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Cấp ủy các cấp phải quan tâm lãnh đạo và tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát theo quy định của Đảng...
Trong xây dựng chương trình kế hoạch kiểm tra, giám sát, cần chú trọng kiểm tra, giám sát người đứng đầu cấp ủy, tổ chức nhà nước trong việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn được giao và việc giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống; lĩnh vực tài chính, đất đai, xây dựng cơ bản, tổ chức cán bộ. Đôn đốc, giám sát, yêu cầu thực hiện nghiêm túc các kết luận kiểm tra, giám sát.
Để việc tổ chức kiểm tra có kết quả tốt, ngoài việc kiểm tra theo kế hoạch, các cấp ủy, cần tăng cường kiểm tra đột xuất việc thực hiện nghị quyết ở các cấp, các ngành. Tổ chức các đoàn, các tổ kiểm tra tinh gọn, có nội dung trọng tâm và không báo trước cho đơn vị, địa phương cần kiểm tra. Dành nhiều thời gian khảo sát cụ thể trong nhân dân, ở cơ sở xã, phường, xí nghiệp.
Sau khi khảo sát, kiểm tra cơ sở mới làm việc với tập thể lãnh đạo đơn vị, địa phương để chỉ đạo cụ thể. Làm được như vậy, việc kiểm tra sẽ thực chất hơn, hạn chế bệnh quan liêu, hình thức, lãng phí.
Sau mỗi lần kiểm tra đều có văn bản kết luận rõ và cơ quan chuyên trách phải theo dõi tiến độ, kết quả thực hiện kết luận đó.
Bốn là, lãnh đạo nâng cao năng lực của Nhà nước trong thể chế hóa, cụ thể hóa và tổ chức thực hiện có hiệu quả đường lối, chủ trương của Đảng.
Chúng ta biết, trong đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng thì đổi mới phương thức lãnh đạo đối với Nhà nước là trọng yếu nhất. Bởi vì, vai trò của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng; đồng thời, Nhà nước còn là tổ chức đề ra chính sách quốc gia và tổ chức thực hiện những chính sách đó. Vì vậy, Nhà nước có trách nhiệm thể chế, cụ thể hóa đường lối, chủ trương của Đảng.
Đảng lãnh đạo Quốc hội, Chính phủ nâng cao chất lượng lập pháp, cải cách hành chính, cải cách tư pháp. Trong xã hội nước ta hiện nay, quyền lực tối cao đều thuộc về nhân dân. Không những Đảng, mà nhà nước với các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp, đều có trách nhiệm phục vụ nhân dân, làm đầy tớ cho nhân dân. Nhà nước phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, thực hiện theo chức năng của mình, chức năng quản lý xã hội với hệ thống pháp luật được thể chế hóa từ đường lối, chủ trương của Đảng và từ sự ủy quyền của nhân dân, từ quyền làm chủ của nhân dân.
Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị nói chung và Nhà nước nói riêng thông qua hệ thống bộ máy tổ chức của Đảng trong các cơ quan, bộ máy tổ chức của Nhà nước.
Năm là, đẩy mạnh cải cách hành chính, giảm mạnh hội họp, tinh giản tổ chức bộ máy, biên chế theo hướng tinh gọn, hoạt động, hiệu lực, hiệu quả.
Thực tế tổ chức bộ máy hiện nay, bên cạnh những mặt tích cực, vẫn còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, chức năng nhiệm vụ còn chồng chéo, hiệu quả, hiệu lực hoạt động của nhiều tổ chức trong hệ thống chính trị chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Thẩm quyền, trách nhiệm của cán bộ, công chức, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu chưa được thể hiện rõ nét; tinh giản biên chế, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức kết quả chưa cao; thậm chí, có nơi chất lượng bộ máy, cán bộ còn thấp, còn gây phiền nhiễu, tiêu cực, làm mất lòng tin trong nhân dân.
Việc sắp xếp lại tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế là vấn đề khó khăn, phức tạp, liên quan trực tiếp đến con người. Vì vậy, cần quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị, của cán bộ, đảng viên cũng như sự đồng thuận của nhân dân, đặc biệt là nhận thức và trách nhiệm của người đứng đầu. Cùng với đó là vận dụng vào thực tiễn một cách khoa học, đồng bộ, từng bước. Lãnh đạo, chỉ đạo việc rà soát các thủ tục hành chính ở các cấp, các ngành, ở từng đơn vị, thủ tục nào không cần thiết, gây khó khăn cho người dân và doanh nghiệp, cho cấp dưới phải bãi bỏ, nhất là các cơ chế “xin - cho”.
Mỗi cơ quan, ban, ngành đều phải thông báo công khai các cơ chế, chính sách, các quy trình, thủ tục cho mọi người dân đều biết. Tất cả các cơ quan có điều kiện phải trang bị và sử dụng rộng rãi công nghệ thông tin để xử lý công việc nhanh nhất, chính xác nhất. Việc giảm mạnh hội họp là rất cấp bách trong tình hình hiện nay. Tùy từng nội dung để xác định hình thức họp. Nội dung nào đã có văn bản và đối tượng cần họp chỉ cần đọc là thực hiện được thì không triệu tập họp. Nội dung nào cần thảo luận, tranh luận để kết luận mới cần họp. Có thể họp trực tuyến thay cho họp trực tiếp nếu thấy hiệu quả hơn. Vừa giảm số lần họp, vừa giảm thời gian họp bằng cách gửi văn bản trước, đến hội nghị không đọc văn bản, chỉ gợi ý trao đổi, thảo luận những nội dung trọng tâm, cần thiết. Giảm mạnh hội họp cũng là biện pháp chống lãng phí, tinh giản số lượng lãnh đạo, quản lý.
Sáu là, bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng đối với MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội; đồng thời, tôn trọng các nguyên tắc tổ chức và hoạt động, vai trò, tính tự chủ, năng động, sáng tạo của các tổ chức đó.
Trong mọi mặt hoạt động của đời sống xã hội, MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội là tổ chức của nhân dân. Với vai trò, trách nhiệm là hạt nhân lãnh đạo của hệ thống chính trị, Đảng phải bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất đối với các tổ chức đó. Trong lãnh đạo, phải bảo đảm phương thức thích hợp bằng cách tôn trọng các nguyên tắc tổ chức và hoạt động; vai trò, tính tự chủ, năng động, sáng tạo của các tổ chức, khắc phục tình trạng lãnh đạo, chỉ đạo theo kiểu áp đặt chủ quan; cần đổi mới cách tuyên truyền vận động nhân dân, tạo sự đồng thuận trong việc thực hiện có hiệu quả đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc chính là thước đo cho sự phù hợp, đúng đắn của phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội.
Bảy là, cụ thể hóa nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách trong lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị, khắc phục tình trạng bao biện, làm thay hoặc buông lỏng lãnh đạo, quản lý. Hơn lúc nào hết, Đảng cần thực hiện thật tốt các nguyên tắc tổ chức, xây dựng Đảng, nhất là nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Phải tôn trọng tập thể lãnh đạo và phát huy được sức mạnh trí tuệ, hành động của tập thể; đồng thời, đề cao trách nhiệm cá nhân. Kiên quyết khắc phục, phòng, chống biểu hiện độc đoán, chuyên quyền, mệnh lệnh, quan liêu; trông chờ, ỷ lại, dựa dẫm tập thể, thiếu quyết đoán, không dám chịu trách nhiệm. Trên thực tế, có lúc, có nơi, Đảng vẫn còn tình trạng bao biện, làm thay hoặc buông lỏng lãnh đạo, quản lý. Muốn đổi mới có hiệu quả phương thức lãnh đạo của Đảng, nhất thiết phải khắc phục cho được tình trạng này. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị thông qua các tổ chức và đội ngũ cán bộ, đảng viên. Và cán bộ, đảng viên tiên phong, gương mẫu là yêu cầu bắt buộc trong đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị và toàn xã hội. Do đó, cần phát huy tốt tính tiên phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong bộ máy Nhà nước, MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội. Các tổ chức Đảng và cán bộ, đảng viên phải tuân thủ nghiêm Hiến pháp, pháp luật; đi đầu và tích cực trong thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Vì vậy, cần quy định cụ thể quyền hạn, trách nhiệm của các tổ chức đảng, của cán bộ, nhất là người đứng đầu trong mối quan hệ với cấp ủy, với tổ chức đảng cũng như với các tổ chức khác trong xã hội.
Tám là, Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị và xã hội bằng công tác KT-GS. Đây là vấn đề quan trọng, có tính xuyên suốt trong đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong tình hình mới. Vì thế, giải pháp này cần được thực hiện bằng chính nhiệm vụ thường xuyên kiểm tra, giám sát trong nội bộ Đảng; đồng thời, bằng sự phối hợp với các tổ chức khác trong hệ thống chính trị và vận động nhân dân tham gia để nâng cao hiệu quả thiết thực. Bên cạnh đó, công tác kiểm tra, giám sát phải được kết hợp với việc sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm trong quá trình triển khai thực hiện nghị quyết của Đảng; công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu… Đây chính là phương thức chống “giặc nội xâm” có hiệu quả nhất; trong công tác chống tham nhũng, tiêu cực trong Đảng, Nhà nước; khắc phục tình trạng đặc quyền, đặc lợi, xây dựng đạo đức cách mạng trong toàn Đảng và xã hội.
Cùng với đó, chủ động rà soát, sửa đổi, bổ sung hệ thống các văn bản của Đảng để phù hợp với chế định trong Hiến pháp, bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ, liên thông trong hệ thống chính trị. Tích cực ứng dụng và phát huy hiệu quả tiến bộ công nghệ thông tin, kỹ thuật số vào công tác lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị; tiến tới thực hiện mục tiêu chuyển đổi số quốc gia theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Phương thức lãnh đạo của Đảng là yếu tố “động”, luôn luôn cần phải hoàn thiện để phù hợp với điều kiện mới. Trước yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng hiện nay, đòi hỏi tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, nâng cao hơn nữa năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng để lãnh đạo đất nước nói chung, tỉnh Đồng Nai nói riêng phát triển nhanh và bền vững trên con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Trong suốt quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, nhất là từ khi thực hiện đổi mới năm 1986 đến nay, Đảng ta rất coi trọng phương thức lãnh đạo và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, MTTQ Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và toàn xã hội. Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết về đổi mới, phương thức lãnh đạo của Đảng. Đặc biệt, Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 5, khóa X đã xác định rõ những yêu cầu trong đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; các nghị quyết Đại hội Đảng trong thời kỳ đổi mới đều đề cập đến nhiệm vụ, yêu cầu tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII nhận định: Phương thức lãnh đạo của Đảng tiếp tục được đổi mới. Ban hành và thực hiện nhiều quy định bảo đảm giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, đề cao nguyên tắc pháp quyền, phát huy dân chủ, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội. Đổi mới cách học tập, quán triệt nghị quyết, coi trọng việc lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết việc thực hiện nghị quyết của Đảng. Việc đổi mới phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ Trung ương tới cơ sở có sự chuyển biến tích cực, rõ nét. Coi trọng việc phát huy vai trò, trách nhiệm nêu gương của các tổ chức đảng, đảng viên, nhất là người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội. Trong những năm tới, Đảng ta xác định: Phải đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng, phương pháp công tác, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ Trung ương đến cơ sở theo hướng khoa học, tập thể, dân chủ, trọng tâm, gần dân, hiểu dân, vì dân, sát thực tiễn, cầu thị, học hỏi, nói đi đôi với làm. Đẩy mạnh cải cách hành chính trong Đảng; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của Đảng. Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng xây dựng, ban hành nghị quyết của Đảng, bảo đảm tốt các điều kiện để triển khai, thực hiện nghị quyết một cách hiệu quả… để xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh, hiện thực hóa khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, Nhân dân hạnh phúc.