Thành tố quyết định trong an ninh năng lượng: 'Bài toán' nguồn nhân lực chất lượng cao
Ngày 20/8/2025, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 70-NQ/TW về bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Văn kiện quan trọng này xác định nhiều nhóm nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm, trong đó nhấn mạnh yêu cầu xây dựng, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành năng lượng. Đây được xem là thành tố quyết định cho việc hiện thực hóa mục tiêu bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia.
Yêu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao
Quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế cùng với sự phát triển vượt bậc của khoa học, công nghệ đang mở ra cho Việt Nam nhiều cơ hội phát triển mới, từ thu hút đầu tư nước ngoài, thúc đẩy chuyển giao công nghệ đến cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Tuy nhiên, đi cùng với cơ hội là không ít thách thức đến từ các vấn đề an ninh phi truyền thống vốn đang diễn biến ngày càng phức tạp, tác động sâu rộng và ảnh hưởng tiêu cực đến mọi mặt đời sống xã hội và người dân.
Hiện có khoảng 30 nguy cơ đe dọa an ninh phi truyền thống, như: biến đổi khí hậu, già hóa dân số, thiên tai, an ninh năng lượng, an ninh mạng, an ninh nguồn nước, an ninh sức khỏe... Trong đó, an ninh năng lượng nổi lên như một vấn đề trọng yếu, gắn chặt với các vấn đề về môi trường sinh thái, tài nguyên thiên nhiên và biến đổi khí hậu. Bảo đảm an ninh năng lượng không chỉ phục vụ cho phát triển sản xuất và đời sống, mà còn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với ổn định chính trị - xã hội, an sinh xã hội và mục tiêu phát triển bền vững toàn cầu.
Trước bối cảnh đó, cùng với một số vấn đề thực tiễn như nhu cầu năng lượng tăng nhanh, thị trường điện chưa thật sự cạnh tranh, một số dự án tái tạo bị đình trệ và yêu cầu giảm phát thải ròng vào năm 2050 ngày càng gấp rút, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 70-NQ/TW về bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045. Với những mục tiêu cụ thể, cơ chế mạnh mẽ, Nghị quyết được kỳ vọng sẽ mở ra tư duy mới cho ngành năng lượng Việt Nam, nhằm xây dựng hệ thống năng lượng hiện đại, xanh, sạch, bền vững, góp phần thực hiện cam kết phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.
Dĩ nhiên, để hiện thực hóa những kỳ vọng lớn lao đó không phải là điều dễ dàng, đòi hỏi nhiều yếu tố, trong đó có đội ngũ nhân lực chất lượng cao. Thế nhưng, thực tế cho thấy, nguồn nhân lực chất lượng cao vẫn là “bài toán” khó giải của ngành năng lượng Việt Nam. Hiện, toàn ngành có khoảng 400.000 lao động trực tiếp và gián tiếp, song cơ cấu phân bổ còn thiếu cân đối. Nhân lực chủ yếu vẫn tập trung ở các lĩnh vực truyền thống như nhiệt điện than, thủy điện và khai thác dầu khí, trong khi nhân lực cho các lĩnh vực năng lượng mới như năng lượng tái tạo, lưới điện thông minh, công nghệ lưu trữ lại thiếu hụt nghiêm trọng, chưa đáp ứng được yêu cầu hiện nay.
Theo ước tính, Việt Nam mới có khoảng 30.000 - 35.000 lao động trong lĩnh vực năng lượng tái tạo, song chỉ khoảng 10 - 15% có đào tạo chuyên sâu, còn lại chủ yếu chuyển từ các lĩnh vực cơ khí, điện, điện tử. Những kỹ năng còn thiếu hụt rõ nhất là vận hành, quản lý dự án, ngoại ngữ và làm việc trong môi trường quốc tế. Trong khi đó, xu hướng phát triển lưới điện thông minh lại đang đặt ra yêu cầu mới về trí tuệ nhân tạo (AI), phân tích dữ liệu lớn (Big Data) và an ninh mạng, những lĩnh vực mà phần lớn kỹ sư năng lượng Việt Nam ít có cơ hội tiếp cận và thực hành.
Thực tế này khiến nhiều doanh nghiệp trong lĩnh vực năng lượng tái tạo rơi vào tình trạng thiếu hụt đội ngũ chuyên gia vận hành và bảo dưỡng thiết bị. Thậm chí, ở một số lĩnh vực then chốt, nguồn nhân lực gần như bỏ trống. Đây là “điểm nghẽn” lớn, khó khắc phục, bởi dù có thể mua công nghệ, thiết bị từ nước ngoài nhưng không thể “nhập khẩu” người vận hành, bảo dưỡng. Khi thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao, việc phải thuê chuyên gia nước ngoài không chỉ kéo theo chi phí vận hành tăng cao, rủi ro sự cố lớn mà còn khiến các nhà đầu tư quốc tế e ngại.
Chia sẻ về vấn đề này với truyền thông, Phó Chủ tịch Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) Võ Tân Thành cho rằng, một trong những thách thức lớn nhất của quá trình chuyển đổi xanh và bền vững là làm sao để nguồn nhân lực Việt Nam có thể thích ứng và làm chủ các công nghệ mới, đặc biệt trong các lĩnh vực then chốt như sản xuất xanh và năng lượng tái tạo. Các nhà máy sản xuất cần những kỹ sư, công nhân có kiến thức về công nghệ sạch, quy trình sản xuất tuần hoàn. Các dự án năng lượng tái tạo rất cần những chuyên gia vận hành, bảo trì có tay nghề cao. “Đây chính là “khoảng trống” kỹ năng mà Việt Nam cần phải giải quyết”, ông Võ Tân Thành nhấn mạnh.
Hướng đi cho “bài toán” khó giải
Để đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững của đất nước trong thời gian tới, ngành năng lượng phải đi trước một bước với tốc độ cao, bền vững, đồng bộ, phát triển theo hướng thị trường, bảo đảm cung cấp năng lượng đầy đủ, ổn định và an toàn cho nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Muốn làm được điều đó, nhiệm vụ xây dựng đội ngũ nhân lực chất lượng cao là thành tố quyết định. Chỉ khi sở hữu đội ngũ nhân lực có trình độ, bản lĩnh và tư duy đổi mới, Việt Nam mới có thể vững vàng trên lộ trình bảo đảm an ninh năng lượng, chuyển dịch năng lượng xanh, hướng tới phát triển bền vững.

Nghị quyết 70-NQ/TW định hình một chiến lược tổng thể và toàn diện về phát triển nguồn nhân lực ngành năng lượng. (Hình minh họa - Nguồn: Freepik)
Từ tầm nhìn chiến lược đó, Nghị quyết 70-NQ/TW của Bộ Chính trị đã xác định rõ nhiều nhóm nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm, trong đó nhấn mạnh yêu cầu xây dựng, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đạt trình độ quốc tế, có khả năng làm chủ công nghệ hiện đại và đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững cho ngành năng lượng. Bởi lẽ, hạn chế, yếu kém của ngành năng lượng hiện nay không chỉ nằm ở thể chế, chính sách, công tác quản lý, tiến độ thực hiện hay nguồn cung năng lượng, cơ sở hạ tầng, công nghệ… mà còn ở chất lượng nguồn nhân lực, năng suất lao động trong một số lĩnh vực còn thấp.
Theo đó, Bộ Chính trị yêu cầu hình thành cơ chế liên kết giữa các nhà khoa học, cơ sở đào tạo và doanh nghiệp trong lĩnh vực năng lượng thông qua các chương trình khoa học, công nghệ. Lồng ghép hoạt động nghiên cứu, phát triển vào các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển năng lượng. Đồng thời, giao nhiệm vụ xây dựng đề án đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành năng lượng, đưa lĩnh vực này vào danh mục ngành đào tạo trọng điểm. Đặt mục tiêu đào tạo tối thiểu 25.000 - 35.000 kỹ sư, chuyên gia năng lượng, đặc biệt ưu tiên cho ngành then chốt như năng lượng hạt nhân.
Song song, khuyến khích các chính sách ưu tiên đào tạo nhân lực chất lượng cao và thu hút chuyên gia là người nước ngoài, người Việt Nam ở nước ngoài về nước làm việc trong lĩnh vực năng lượng hạt nhân, năng lượng tái tạo và năng lượng mới. Cũng như mở rộng hoạt động hợp tác quốc tế về đào tạo và chuyển giao công nghệ, nhằm rút ngắn khoảng cách về trình độ, kỹ năng và năng lực nghiên cứu giữa Việt Nam với các quốc gia trên thế giới.

Nhiều trường đại học tăng cường hoạt động hợp tác quốc tế về đào tạo, chuyển giao công nghệ năng lượng. (Ảnh: Trường Điện - Điện tử, Đại học Bách khoa Hà Nội)
Có thể thấy, Nghị quyết 70-NQ/TW dù chỉ dành nội dung ngắn cho đào tạo nhân lực ngành năng lượng nhưng những định hướng được nêu ra lại thể hiện rõ tầm nhìn mới, cụ thể hơn và khắc phục được những hạn chế còn tồn tại trong Nghị quyết 55-NQ/TW của Bộ Chính trị về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Chưa kể, Nghị quyết mới về bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia không chỉ đặt ra con số hay chỉ tiêu, mà còn định hình một chiến lược tổng thể và toàn diện về phát triển nguồn nhân lực ngành năng lượng.
Cụ thể, việc đào tạo nhân lực phải được triển khai đồng bộ cả về số lượng lẫn chất lượng, gắn với thực tiễn phát triển ngành và yêu cầu của chuyển đổi xanh. Nhấn mạnh mở rộng hợp tác, hội nhập quốc tế, nhằm giúp đội ngũ nhân lực Việt Nam đủ năng lực làm việc trong môi trường toàn cầu. Đồng thời, yêu cầu thiết lập cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước - doanh nghiệp - cơ sở đào tạo, tạo thành một “hệ sinh thái” nhân lực hoàn chỉnh. Đây được xem là giải pháp căn cơ, vừa đáp ứng yêu cầu trước mắt, vừa tạo nền tảng lâu dài cho ngành năng lượng Việt Nam phát triển bền vững, chủ động thích ứng linh hoạt, kịp thời, phù hợp, hiệu quả với tình hình thế giới.