Sớm đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học - Bài cuối: Lộ trình dài hơi, bắt đầu từ đội ngũ

Để triển khai hiệu quả chủ trương đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học, theo chuyên gia, cần có lộ trình phù hợp, đồng thời chuẩn bị vững chắc về đội ngũ giáo viên, chương trình giảng dạy và môi trường học tập ngoại ngữ.

Nghị quyết 71-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo đặt mục tiêu xây dựng đề án tăng cường việc dạy và học ngoại ngữ giai đoạn 2026-2030, định hướng đến năm 2035; từng bước đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ 2 trong trường học.

Phóng viên Báo Đại đoàn kết đã có cuộc trao đổi với GS.TS Nguyễn Minh Thuyết – Tổng chủ biên Chương trình giáo dục phổ thông 2018 về lộ trình và những điều kiện cần để hiện thực hóa chủ trương này.

GS.TS Nguyễn Minh Thuyết – Tổng chủ biên Chương trình giáo dục phổ thông 2018. Ảnh: NVCC

GS.TS Nguyễn Minh Thuyết – Tổng chủ biên Chương trình giáo dục phổ thông 2018. Ảnh: NVCC

Hiểu đúng khái niệm “ngôn ngữ thứ hai” trong bối cảnh Việt Nam

Phóng viên: Thưa ông, chủ trương từng bước đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học được xem là bước đi chiến lược. Ông đánh giá thế nào về chủ trương này?

GS Nguyễn Minh Thuyết: Chủ trương này là một quyết sách mang tính chiến lược, không chỉ tạo ra bước đột phá trong giáo dục mà còn mở ra triển vọng hội nhập sâu rộng hơn với thế giới và phát triển mạnh hơn của nước ta. Tiếng Anh không chỉ là ngôn ngữ phổ biến toàn cầu mà còn là ngôn ngữ chính thức trong Cộng đồng ASEAN – nơi Việt Nam là thành viên tích cực. Việc từng bước đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong nhà trường, nếu được thực hiện thành công, sẽ trang bị cho thế hệ trẻ công cụ quan trọng để hội nhập quốc tế, đồng thời góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của nguồn nhân lực Việt Nam trong tương lai.

Tuy vậy, điều quan trọng là cần xác định rõ yêu cầu đối với ngôn ngữ thứ hai. Thông thường, sau ngôn ngữ thứ nhất – tức là tiếng mẹ đẻ hoặc ngôn ngữ quốc gia, người ta có thể sử dụng thành thạo một ngôn ngữ khác trong giao tiếp, học tập, làm việc, thì ngôn ngữ đó mới được gọi là ngôn ngữ thứ hai.

Ở nhiều nước, do hoàn cảnh lịch sử hoặc do không có ngôn ngữ nào được đa số dân sử dụng, người ta có thể lấy một ngoại ngữ làm ngôn ngữ quốc gia. Nhưng ở Việt Nam, từ xưa đến nay, tiếng Việt được 54 dân tộc anh em sử dụng làm ngôn ngữ giao tiếp chung và từ năm 2013 đã được Hiến pháp quy định là ngôn ngữ quốc gia. Như vậy, với học sinh người dân tộc thiểu số, tiếng mẹ đẻ là ngôn ngữ thứ thứ hai. Vì thế, khi bàn đến việc coi tiếng Anh là ngôn ngữ thứ hai, cần hiểu đó là ngôn ngữ thứ hai theo nghĩa “ngoại ngữ được sử dụng phổ biến, thành thạo và có chức năng giao tiếp thực tiễn”. Để tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai đúng nghĩa trong trường học thì tiếng Anh không chỉ đóng vai trò thông thường của một môn học mà phải được sử dụng rộng rãi – trong học tập, sinh hoạt, giao tiếp hằng ngày của thầy và trò. Đó là một chặng đường dài, cần được xây dựng kế hoạch chu đáo, khả thi ngay từ bây giờ và áp dụng những biện pháp hữu hiệu để thực hiện bằng được.

Khi bàn đến việc coi tiếng Anh là ngôn ngữ thứ hai, cần hiểu đó là ngôn ngữ thứ hai theo nghĩa “ngoại ngữ được sử dụng phổ biến, thành thạo và có chức năng giao tiếp thực tiễn”, GS Nguyễn Minh Thuyết.

Theo ông, tính khả thi của việc đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học hiện nay ra sao, khi điều kiện dạy và học còn chênh lệch giữa các vùng miền?

- Nghị quyết số 71-NQ/TW chỉ yêu cầu “xây dựng đề án từng bước đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học”. Vì vậy, trước hết cần xây dựng đề án. Đề án này cần đặt trong đề án tăng cường việc dạy và học ngoại ngữ nhưng tầm nhìn phải xa hơn mốc 2035, đối tượng thực hiện bao gồm toàn bộ các cấp học, các trình độ đào tạo. Để bảo đảm tính khả thi, đề án nên được thực hiện thí điểm ở giáo dục đại học và một số trường phổ thông có điều kiện, chứ không thể triển khai đồng loạt, cùng thời điểm.

Như tôi đã nói, để một ngôn ngữ trở thành ngôn ngữ thứ hai, người học phải sử dụng ngôn ngữ ấy thường xuyên trong mọi hoạt động của nhà trường. Nhưng hiện nay, ngay cả ở các trường dạy một số môn bằng tiếng Anh, không phải toàn bộ giáo viên, giảng viên và viên chức đều có thể sử dụng tiếng Anh thành thạo để giao tiếp. Vì vậy, để sử dụng tiếng Anh trong giao tiếp cần có bước chuẩn bị kỹ lưỡng, trong đó có việc phổ cập tiếng Anh cho toàn bộ cán bộ, giáo viên.

Cô và trò Trường THCS Thành Công (phường Giảng Võ, Hà Nội). Ảnh: Q.A.

Cô và trò Trường THCS Thành Công (phường Giảng Võ, Hà Nội). Ảnh: Q.A.

Bỏ tâm lý: chỉ học để thi

Từ thực tiễn hiện nay, đâu là những rào cản lớn nhất cần được tháo gỡ để việc dạy và học tiếng Anh đạt hiệu quả thực chất, thưa Giáo sư?

- Rào cản đầu tiên và lớn nhất chính là năng lực ngoại ngữ của đội ngũ cán bộ, giáo viên, các trường. Hiện ngoài giáo viên, giảng viên tiếng Anh, phần lớn giáo viên, giảng viên các môn khác và viên chức hành chính đều chưa đủ trình độ để có thể sử dụng tiếng Anh trong công việc hoặc giao tiếp hằng ngày.

Để khắc phục, không có cách nào khác ngoài việc đào tạo, bồi dưỡng lại đội ngũ. Tuy nhiên, đây là quá trình khó khăn vì khối lượng công việc của cán bộ, giáo viên ở các trường rất lớn, thời gian tự học, rèn luyện bị hạn chế. Nhưng tôi tin rằng thế hệ giáo viên tương lai – những người được học tiếng Anh bài bản từ phổ thông – có thể giảng dạy, giao tiếp bằng tiếng Anh hiệu quả và điều này sẽ tác động đến đội ngũ cán bộ, giáo viên nói chung, tạo ra ở họ nhu cầu học và sử dụng tiếng Anh.

Một rào cản nữa là thi cử. Học sinh hiện vẫn học tiếng Anh chủ yếu để thi, mà các kỳ thi đều là thi viết, chỉ đánh giá được kiến thức ngữ pháp và kĩ năng đọc, viết. Vì thế, dù có những bộ sách giáo khoa môn Tiếng Anh rất tốt, phát triển toàn diện cả bốn kỹ năng giao tiếp (nghe, nói, đọc, viết), vốn là sách do các chuyên gia Anh, Mỹ, Úc soạn thảo, sử dụng phổ biến ở rất nhiều nước, vẫn ít được các địa phương, các trường lựa chọn.

Tôi cho rằng, tháo gỡ rào cản của lối học ứng thí này là một câu chuyện lớn. Làm sao để người học và cả xã hội, bao gồm các nhà quản lý, chuyển từ nếp nghĩ “Thi gì học nấy” sang “Học gì thi nấy”, thậm chí “Học để làm người, học không phải để thi”? Nếu cách thi cử, tuyển dụng, sử dụng nhân lực không thay đổi thì việc dạy và học tiếng Anh sẽ khó chuyển từ hình thức sang thực chất.

 GS Nguyễn Minh Thuyết phát biểu tại tại Lễ ra mắt Mạng lưới giảng dạy tiếng Việt và văn hóa Việt Nam toàn cầu tại Fukuoka, Nhật Bản, ngày 29/9/2025. Ảnh: NVCC

GS Nguyễn Minh Thuyết phát biểu tại tại Lễ ra mắt Mạng lưới giảng dạy tiếng Việt và văn hóa Việt Nam toàn cầu tại Fukuoka, Nhật Bản, ngày 29/9/2025. Ảnh: NVCC

Ngay như câu chuyện về sách giáo khoa, hiện chúng ta đang thực hiện chủ trương “một chương trình, nhiều sách giáo khoa” theo Nghị quyết số 88/2014/QH13 của Quốc hội và Luật Giáo dục nhưng theo yêu cầu của Nghị quyết 71 của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 281/NQ-CP của Chính phủ, từ năm học 2025 – 2026 tới đây sẽ áp dụng trong cả nước một bộ sách giáo khoa dùng chung. Điều này có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân từ tâm lý lo lắng chuyện thi cử của phụ huynh và học sinh.

Mặc dù, năm 2025, Bộ GDĐT đã tổ chức thi tốt nghiệp THPT theo Chương trình Giáo dục phổ thông 2018, qua đó thấy rõ đề thi không phụ thuộc vào bất kỳ quyển sách nào mà nằm ngoài ngữ liệu sách giáo khoa. Nhưng tâm lý thi cử của học sinh và phụ huynh vẫn còn rất nặng nề. Thành thử chúng ta vẫn loay hoay mãi với chuyện một bộ hay nhiều bộ sách giáo khoa giấy, trong khi ở nhiều nước, từ lâu, người ta đã chuyển từ việc sử dụng sách giáo khoa giấy sang sử dụng học liệu điện tử và dù là học liệu dưới dạng sách giấy hay sách điện tử cũng chỉ là tài liệu tham khảo thôi.

"Làm sao để người học và cả xã hội, bao gồm các nhà quản lý, chuyển từ nếp nghĩ “Thi gì học nấy” sang “Học gì thi nấy”, thậm chí “Học để làm người, học không phải để thi”? Nếu cách thi cử, tuyển dụng, sử dụng nhân lực không thay đổi thì việc dạy và học tiếng Anh sẽ khó chuyển từ hình thức sang thực chất", GS Nguyễn Minh Thuyết.

Ông có cho rằng đội ngũ giáo viên tiếng Anh hiện nay có đáp ứng được yêu cầu của giai đoạn mới không? Cần những giải pháp gì để khắc phục tình trạng thiếu hụt đội ngũ, nhất là ở vùng khó khăn, thưa giáo sư?

- Về chất lượng của đội ngũ, tôi không sát nên không dám lạm bàn. Tôi chỉ xin nói về số lượng. Mặc dù số sinh viên tiếng Anh ra trường hằng năm khá lớn nhưng việc tuyển dụng giáo viên tiếng Anh rất khó khăn. Địa phương nào cũng than thiếu, bởi những người giỏi tiếng Anh thường chọn làm việc ở lĩnh vực khác, lương cao, ít áp lực hơn.

Tôi cho rằng, cần có cơ chế linh hoạt hơn. Chẳng hạn, mời những người giỏi tiếng Anh ở địa phương tham gia giảng dạy; nếu họ chưa qua đào tạo sư phạm thì tổ chức bồi dưỡng và cấp chứng chỉ nghiệp vụ sư phạm cho họ. Mặt khác, địa phương nên có chính sách khuyến khích giáo viên các môn khác học tiếng Anh để có thể dạy tiếng Anh hoặc dạy song ngữ ở mức độ nhất định. Tuy nhiên, với cả hai nhóm đối tượng nói trên, cần áp dụng chính sách đãi ngộ đặc biệt mới có thể thu hút và giữ chân được họ.

Một tiết học của học sinh Trường THCS Thành Công (phường Giảng Võ, Hà Nội). Ảnh: Q.A.

Một tiết học của học sinh Trường THCS Thành Công (phường Giảng Võ, Hà Nội). Ảnh: Q.A.

Tạo động lực và môi trường học tập

Hiện việc học tiếng Anh trong trường phổ thông còn khá hình thức. Theo ông, nhà trường cần làm gì để tạo môi trường học tập và giao tiếp bằng tiếng Anh thực chất hơn?

- Theo quan sát của tôi, ở các thành phố lớn, học sinh có cơ hội tiếp xúc với tiếng Anh nhiều hơn và nhiều gia đình rất nỗ lực đầu tư cho con học tiếng Anh, kể cả học thêm, học trước chương trình ở các cơ sở dạy tiếng Anh ngoài trường học. Còn ở vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu vùng xa, nhất là ở các cấp học dưới, học sinh ít có cơ hội tiếp xúc với tiếng Anh và vẫn chưa thấy được lợi ích thiết thực của việc học tiếng Anh.

Để tạo môi trường học tập thực chất, nhà trường nên tổ chức các hoạt động ngoại khóa, câu lạc bộ tiếng Anh, giao lưu, sinh hoạt chuyên đề bằng tiếng Anh. Khi học sinh được “sống” trong môi trường ngôn ngữ, kỹ năng mới phát triển tự nhiên. Bên cạnh đó, cần khuyến khích giáo viên sử dụng tiếng Anh trong một số hoạt động giảng dạy, sinh hoạt để lan tỏa văn hóa sử dụng ngoại ngữ trong trường học.

Nhìn tổng thể, theo ông cần có lộ trình như thế nào để chủ trương đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai có thể triển khai đồng bộ và bền vững?

- Trước hết, cần xác định rõ mục tiêu từng giai đoạn. Giai đoạn đầu, nên tập trung vào việc nâng cao chất lượng dạy và học tiếng Anh ở các trường có điều kiện. Sau đó, từng bước mở rộng, hình thành môi trường sử dụng tiếng Anh trong trường học.

Về lâu dài, muốn đạt được mục tiêu này phải có lộ trình, chính sách và động lực rõ ràng. Chúng ta cần có cơ chế khuyến khích giáo viên giỏi, học sinh, sinh viên, cán bộ giỏi tiếng Anh – chẳng hạn như cộng điểm, khen thưởng, ưu tiên tuyển dụng, đề bạt. Đồng thời, có thể xem xét chính sách hỗ trợ các trường tổ chức hoạt động bằng tiếng Anh để lan tỏa tinh thần học tập.

Chủ trương đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học thể hiện khát vọng lớn của ngành giáo dục và của đất nước nói chung trong thời kỳ hội nhập, phát triển. Nhưng để hiện thực hóa, cần tạo động lực. Ngoài chế độ khuyến khích, động lực học tiếng Anh chủ yếu được tạo ra nhờ môi trường sử dụng. Môi trường giao tiếp bằng tiếng Anh cũng tạo điều kiện để lớp trẻ rèn luyện, phát triển kĩ năng sử dụng ngoại ngữ này.

Trân trọng cảm ơn ông!

TS. Lưu Thị Kim Nhung. Ảnh: NVCC

TS. Lưu Thị Kim Nhung. Ảnh: NVCC

TS. Lưu Thị Kim Nhung – Giám đốc Trung tâm Phát triển giáo dục và công nghệ số, giảng viên chính khoa Tiếng Anh, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội: Không để những nơi xa xôi bị bỏ lại phía sau.

Việc hiện thực hóa chủ trương đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường phổ thông chỉ là mục tiêu chiến lược mà còn là yêu cầu cấp thiết. Thực tế giảng dạy tại trường cho thấy năng lực tiếng Anh của sinh viên sư phạm hiện nay khá tốt – đây là điều kiện thuận lợi để khẳng định chủ trương này hoàn toàn khả thi. Ở bậc phổ thông, đội ngũ giáo viên tiếng Anh phần lớn đã đạt chuẩn; trong khi đó, học sinh được tạo điều kiện học tập tốt hơn nhờ sự quan tâm ngày càng lớn của phụ huynh khi đời sống kinh tế ổn định. Những yếu tố này tạo nên “bệ phóng” để từng bước đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong nhà trường. Tôi nhìn nhận triển vọng này rất tích cực. Dù còn không ít khó khăn ở các vùng sâu, vùng xa nhưng tôi tin vào những kế hoạch ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, cần xác định trọng điểm để làm trước, làm sau và quan trọng là sẽ không để những nơi xa xôi bị bỏ lại phía sau.

Nguyễn Hoài

Nguồn Đại Đoàn Kết: https://daidoanket.vn/som-dua-tieng-anh-thanh-ngon-ngu-thu-hai-trong-truong-hoc-bai-cuoi-lo-trinh-dai-hoi-bat-dau-tu-doi-ngu.html