Phát triển kinh tế biển bằng sức mạnh khoa học và công nghệ
Phát triển xanh và phát triển kinh tế biển bền vững là lựa chọn tất yếu của thời đại. Trong đó, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo chính là đột phá để Việt Nam khai thác hiệu quả tiềm năng đại dương, đồng thời bảo vệ chủ quyền biển đảo. Chương trình nghiên cứu khoa học và công nghệ (KH-CN) phục vụ phát triển bền vững kinh tế biển do Bộ Khoa học và Công nghệ ban hành được xem là định hướng quan trọng phát triển kinh tế biển bền vững.
Là quốc gia sở hữu hơn 3.200km bờ biển, Việt Nam có lợi thế đặc biệt để phát triển các ngành kinh tế biển. Những năm qua, các chương trình KH-CN biển đã đóng góp hiệu quả vào quản lý tài nguyên biển, dự báo thiên tai, khai thác thủy sản, nuôi biển công nghệ cao và bảo vệ môi trường. Tuy vậy, tình trạng ô nhiễm ven biển, suy giảm hệ sinh thái và khai thác thiếu bền vững cho thấy yêu cầu cấp thiết phải đổi mới phương thức phát triển, dựa trên công nghệ hiện đại và quản lý tổng hợp.

Phát triển kinh tế biển bằng sức mạnh khoa học và công nghệ
Bám sát Nghị quyết 36-NQ/TW và các Chiến lược quốc gia về biển, Việt Nam tiếp tục khẳng định cam kết mạnh mẽ tại Hội nghị Đại dương Liên Hợp Quốc lần thứ ba (UNOC-3). Ngày 1/10/2025, Bộ Khoa học và Công nghệ đã ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện cam kết “Thúc đẩy nghiên cứu KH-CN phục vụ bảo vệ môi trường và phát triển bền vững kinh tế biển” giai đoạn 2025-2030, thiết lập khuôn khổ hành động cụ thể, đo lường được và gắn với thực tiễn.
Kế hoạch tập trung vào ba nhóm nhiệm vụ chính: phát triển KH-CN biển; thúc đẩy hợp tác quốc tế; và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Các hướng nghiên cứu ưu tiên bao gồm: quan trắc - cảnh báo thiên tai biển bằng AI, IoT và dữ liệu lớn; nghiên cứu hệ sinh thái, sinh học biển và phục hồi nguồn lợi; phát triển công nghệ xanh, năng lượng tái tạo, vật liệu và thiết bị phục vụ kinh tế biển; hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới sáng tạo trong khai thác, nuôi trồng và dịch vụ biển bền vững.
Hợp tác quốc tế được coi là đột phá, với việc mở rộng liên kết với Nhật Bản, Hàn Quốc, EU, ASEAN và UNESCO/IOC, đồng thời phát huy vai trò của Ủy ban Hải dương học liên Chính phủ Việt Nam trong nghiên cứu, dự báo và ứng phó biến đổi khí hậu biển.
Một nội dung quan trọng khác là phát triển nhân lực và chuyển đổi số trong lĩnh vực KH-CN biển. Bộ Khoa học và Công nghệ sẽ tập trung xây dựng đội ngũ nhà khoa học, nhất là các nhà nghiên cứu trẻ; tổ chức các khóa đào tạo chuyên sâu về khoa học dữ liệu, công nghệ số và AI phục vụ nghiên cứu biển. Việc hình thành các nhóm nghiên cứu liên ngành gắn kết giữa viện - trường, ứng dụng công nghệ số và dữ liệu mở cho nghiên cứu đại dương cũng được coi là hướng đi chiến lược.
Kế hoạch triển khai cam kết tự nguyện của Việt Nam về KH-CN biển là bước đi chiến lược, toàn diện và có tầm nhìn dài hạn. Đây không chỉ là hành động của ngành KH-CN mà còn là lời khẳng định về trách nhiệm của Việt Nam với đại dương - nguồn sống của hành tinh. Khi KH-CN được đầu tư đúng hướng, Việt Nam sẽ làm chủ công nghệ biển tiên tiến, tăng cường nội lực trong nghiên cứu, đổi mới sáng tạo, giảm thiểu ô nhiễm, ứng phó biến đổi khí hậu và giữ vững chủ quyền quốc gia.













