Những điểm nóng tiềm ẩn và sứ mệnh ngoại giao tiên phong, phòng ngừa
Trên thế giới và ở Việt Nam, trong lịch sử và đương đại, có rất nhiều sự kiện thể hiện vai trò của ngoại giao trong ngăn ngừa nguy cơ xung đột, chiến tranh.
Châu Á, tiềm ẩn những điểm nóng
Xung đột Nga-Ukraine chưa có dấu hiệu đến hồi kết. Cơn địa chấn vẫn lan tỏa. Sự chia rẽ, đối đầu ngày càng tăng. Tưởng sức nóng ở tâm chấn và hậu họa nhãn tiền từ xung đột sẽ hạ nhiệt các toan tính, để các khu vực khác dễ thở hơn!
Nhưng dự báo lại bất an. Các điểm nóng tương tự vẫn âm ỉ, có nguy cơ bùng phát ở nhiều khu vực. Châu Á, một tâm điểm tranh giành địa chiến lược, không là ngoại lệ. Những địa chỉ nằm trong tầm ngắm của chuyên gia, có thể là Đài Loan (Trung Quốc), bán đảo Triều Tiên, Biển Đông… Ngoại trưởng Trung Quốc Tần Cương cảnh báo, cuộc khủng hoảng ở Ukraine không nên diễn ra tại châu Á.
Tình hình Biển Đông lúc nóng, lúc dịu, nhưng các mâu thuẫn về tranh chấp chủ quyền vẫn còn nguyên. Đòi hỏi chủ quyền, ý đồ kiểm soát, khống chế Biển Đông không thay đổi. Các thực thể được cải tạo, xây dựng thành cơ cấu quân sự, “chiến hạm không thể đánh chìm” vẫn còn đó, tiếp tục được bồi đắp. Lực lượng quân sự công khai và trá hình vẫn hiện diện, duy trì hoạt động. Các cuộc diễn tập không ngưng nghỉ. Sức ép không hề giảm.
Lo ngại an ninh, chủ quyền biển đảo, nhiều quốc gia trong khu vực tăng cường mua sắm vũ khí, phát triển lực lượng quân sự, đồng thời, ra sức tìm kiếm sự ủng hộ từ bên ngoài.
ASEAN đẩy mạnh xây dựng Cộng đồng, củng cố vai trò trung tâm trong cấu trúc khu vực; quan hệ với các nước lớn và đối tác; trước các vấn đề nóng, trong đó có giải quyết tranh chấp Biển Đông. Tuy nhiên, ASEAN cũng bộc lộ hạn chế do những vấn đề nội bộ phức tạp, toan tính riêng và sự can dự từ bên ngoài.
Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) ngày càng bộc lộ hạn chế. Tiến trình xây dựng, thông qua Bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC) thực chất, ràng buộc pháp lý và hiệu quả còn quá nhiều trở ngại. Chưa có một cơ chế an ninh hiệu quả có thể ngăn ngừa, kiểm soát, xử lý bất ổn trên Biển Đông.
Nhiều nước ngoài khu vực không ngừng quan tâm, can dự vào Biển Đông. Mỹ củng cố quan hệ đồng minh, tăng cường hợp tác quốc phòng với Philippines, gia tăng hiện diện quân sự tại quốc gia này. Nhiều nước tuyên bố ủng hộ xây dựng COC, hiện diện nhằm ngăn chặn các hành vi cưỡng ép, vi phạm luật pháp quốc tế, vì an ninh, ổn định của khu vực. Nhưng không loại trừ đằng sau động thái đó là ý đồ tranh giành chiến lược, lôi kéo đồng minh, đối tác để kiềm chế, ngăn chặn đối thủ lớn.
Rõ ràng, Biển Đông vẫn tiềm ẩn các nhân tố bên trong và bên ngoài, chủ quan và khách quan, nguy cơ bùng phát thành xung đột. Có thể do tính toán chiến lược, xử lý sai lầm mâu thuẫn, tranh chấp của quốc gia trong khu vực và ý đồ của nước lớn trong và ngoài khu vực.
Ngoại giao tiên phong, phòng ngừa
Những ngày đầu tháng Ba, có một sự kiện trên biển, đảo không thể nào quên trong tâm trí người Việt Nam. Máu của các anh hùng, liệt sĩ đã đổ xuống vì chủ quyền biển, đảo. Bảo vệ chủ quyền biển đảo, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước luôn là nhiệm vụ chiến lược trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó là trọng trách thiêng liêng trước xương máu của bao thế hệ để có được Tổ quốc, cơ đồ hôm nay.
Muốn giữ yên núi sông, bờ cõi, trước hết chúng ta phải mạnh, mạnh tổng hợp. Kinh tế phát triển, chính trị ổn định, quốc phòng, an ninh vững chắc; đối ngoại tiên phong tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, nâng cao vị thế, uy tín quốc tế, ngăn ngừa nguy cơ, thách thức. Nói khái quát là: Đảng vững, nước giàu, dân yên, quân mạnh, thêm đối tác, bớt đối tượng.
Tăng cường sức mạnh vật chất, tinh thần, xây dựng, củng cố thế trận quốc phòng toàn dân, lực lượng quốc phòng toàn dân, lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước tiến lên hiện đại; lực lượng trên biển, trên biên giới, trên không, không gian mạng và một số lực lượng khác tiến nhanh lên hiện đại.
Phát hiện, ngăn ngừa, hóa giải từ sớm, từ xa các nguy cơ, thách thức, không để xung đột, chiến tranh xảy ra là phương thức tối ưu, hữu hiệu nhất. Ngoại giao giữ vai trò tiên phong, trong đó giữ vững hòa bình, ổn định là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên; phục vụ phát triển đất nước là nhiệm vụ trung tâm; nâng cao vị thế, uy tín đất nước là nhiệm vụ quan trọng.
Trên thế giới và ở Việt Nam, trong lịch sử và đương đại, có rất nhiều sự kiện thể hiện vai trò của ngoại giao trong ngăn ngừa nguy cơ xung đột, chiến tranh. Gần nhất là xung đột giữa Nga-Ukraine. Theo một kênh truyền hình, vào đầu tháng trước, cựu Thủ tướng Israel Naftali Bennett tiết lộ một thông tin chấn động, đầy tiếc nuối. Thông qua vai trò trung gian của ông, Moscow và Kiev dường như sẵn sàng nhượng bộ, đồng ý ngưng chiến. Ngoại giao hé mở cơ hội, nhưng các bên không tận dụng được.
Ở một tình huống cực kỳ khó khăn, Việt Nam đã làm việc tưởng như không thể. Trong các bài viết, trả lời phỏng vấn về cố Đại tướng, Chủ tịch nước Lê Đức Anh, Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh chia sẻ nhiều câu chuyện đặc biệt “phá băng quan hệ Việt - Trung”.
Những năm cuối thập niên 1980, đầu thập niên 1990, biên giới phía Bắc vẫn trong tình trạng “bên miệng hố chiến tranh”. Giải quyết vấn đề biên giới phía Bắc là nhiệm vụ chiến lược, rất cần nhưng cực kỳ khó. Qua nhiều kênh, trong đó có công tác đối ngoại quốc phòng, các cuộc tiếp xúc, gặp gỡ, Đại tướng Lê Đức Anh nắm được tín hiệu Trung Quốc cũng muốn bình thường hóa quan hệ. Ông cũng chuyển đến Trung Quốc thông điệp của lãnh đạo ta “Việt Nam muốn hòa bình”. Và việc bình thường hóa đã diễn ra. Mở đầu một chương mới trong quan hệ giữa hai nước.
Cuộc marathon đàm phán, ký kết Hiệp định Paris chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình tại Việt Nam kéo dài gần 5 năm, dài nhất lịch sử, để lại nhiều dấu ấn về ngoại giao Việt Nam. Và còn nhiều sự kiện khác. Những câu chuyện, sự kiện trên là minh chứng về vai trò, sức mạnh to lớn của ngoại giao; về trí tuệ, bản lĩnh, tinh thần dám làm, dám chịu trách nhiệm của lãnh đạo cấp cao và đội ngũ cán bộ, nhân viên ngoại giao.
Ngoại giao ở đây là cả một lĩnh vực, công tác, hoạt động của Đảng, Nhà nước, các cấp, các ngành và nhân dân. Trong đó, cán bộ, nhân viên ngành ngoại giao là lực lượng chuyên trách, nòng cốt, xung kích. Để thực hiện sứ mệnh vẻ vang, ngoại giao cần: Đoàn kết, kỷ cương, bản lĩnh, linh hoạt, không ngừng đổi mới, sáng tạo, tìm ra tiềm năng mới, khai phá nguồn lực mới cho đất nước phát triển.
Con người là nhân tố quyết định. Công tác đào tạo nguồn nhân lực, xây dựng đội ngũ cán bộ, nhân viên ngoại giao đáp ứng đầy đủ các tiêu chí: bản lĩnh, vững vàng về chính trị, giàu bản sắc văn hóa dân tộc, tinh thông nghiệp vụ, giỏi ngoại ngữ, tác phong chuyên nghiệp, hiện đại… vô cùng quan trọng. Tu dưỡng, rèn luyện và học tập là công việc suốt đời. Học ở trường lớp, học qua thực tiễn, học ở nhân dân, học với bạn bè, đối tác.
Chỉ có như vậy, ngoại giao mới thực sự tiên phong, đồng hành cùng đất nước.