Nghiên cứu lâm sàng về thuốc mới mang lại hiệu quả tích cực trong điều trị ung thư phổi

Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng đã và đang đóng góp tích cực vào việc phát triển và áp dụng những phương pháp mới trong chẩn đoán và điều trị ung thư nói chung, ung thư phổi nói riêng.

"Chúng ta đã chứng kiến một sự tiến bộ mạnh mẽ, từ các phương pháp hóa trị truyền thống đến các loại thuốc nhằm trúng đích và thuốc miễn dịch tiên tiến. Những thành tựu này không chỉ nâng cao hiệu quả điều trị mà còn mang lại hy vọng sống cho nhiều bệnh nhân"- PGS.TS Nguyễn Thị Liên Hương - Thứ trưởng Bộ Y tế đã nhấn mạnh những thông tin trên tại hội nghị nghiên cứu viên ung thư phổi toàn quốc do Bệnh viện K và AstraZeneca Việt Nam tổ chức tại Hà Nội, ngày 22/6

PGS.TS Nguyễn Thị Liên Hương - Thứ trưởng Bộ Y tế nhấn mạnh: Thông qua việc phê duyệt đề cương nghiên cứu cho thấy các đơn vị thử nghiệm lâm sàng ở Việt Nam đã tham gia rất tích cực và đã được các tổ chức quốc tế tin tưởng lựa chọn là các điểm nghiên cứu.

PGS.TS Nguyễn Thị Liên Hương - Thứ trưởng Bộ Y tế nhấn mạnh: Thông qua việc phê duyệt đề cương nghiên cứu cho thấy các đơn vị thử nghiệm lâm sàng ở Việt Nam đã tham gia rất tích cực và đã được các tổ chức quốc tế tin tưởng lựa chọn là các điểm nghiên cứu.

Hội nghị diễn ra theo hình thức trực tiếp và trực tuyến với sự tham gia của hơn 100 chuyên gia y tế trong lĩnh vực điều trị ung thư, đặc biệt là chuyên gia về ung thư phổi đến từ các trung tâm ung thư có uy tín trên thế giới và các trung tâm ung thư lớn ở Việt Nam.

Nhiều đơn vị thử nghiệm nghiên cứu lâm sàng ở Việt Nam đã được các tổ chức quốc tế tin tưởng lựa chọn

Theo Thứ trưởng Nguyễn Thị Liên Hương, trong thời gian qua, công tác nghiên cứu khoa học, đặc biệt là nghiên cứu phát triển sản phẩm mới và thử nghiệm lâm sàng của nhiều đơn vị ngành y tế, trong đó có Bệnh viện K đã đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận.

Thông qua việc phê duyệt đề cương nghiên cứu cho thấy các đơn vị thử nghiệm lâm sàng ở Việt Nam đã tham gia rất tích cực và đã được các tổ chức quốc tế tin tưởng lựa chọn là các điểm nghiên cứu.

Trong những năm qua, nhiều bệnh viện ở Việt Nam đã vượt qua các quy trình thẩm định khắt khe của các công ty dược phẩm lớn, các cơ quan, tổ chức quản lý y khoa, quản lý nghiên cứu lâm sàng uy tín (FDA, các đơn vị thanh tra độc lập...) để đạt được những yêu cầu về triển khai nghiên cứu lâm sàng, cũng như đánh giá kết quả nghiên cứu lâm sàng, từ năng lực tuyển bệnh, chất lượng dữ liệu nghiên cứu, và việc tuân thủ Thực hành tốt thử thuốc trên lâm sàng (GCP) và các nguyên tắc đạo đức trong nghiên cứu y sinh học...

Nhiều bệnh viện ở Việt Nam đã tham gia triển khai thử nghiệm lâm sàng đa trung tâm, tiến hành theo các tiêu chuẩn quốc tế, bảo đảm tuân thủ Thực hành lâm sàng tốt và các nguyên tắc đạo đức trong nghiên cứu y sinh học...

TS.BS Nguyễn Ngô Quang, Quyền Cục trưởng Cục Khoa học Công nghệ và Đào tạo (Bộ Y tế) phát biểu.

TS.BS Nguyễn Ngô Quang, Quyền Cục trưởng Cục Khoa học Công nghệ và Đào tạo (Bộ Y tế) phát biểu.

"Nhiều nghiên cứu ở Việt Nam đã đóng góp tích cực vào việc thay đổi phương pháp thực hành lâm sàng, tìm ra những thuốc mới cải thiện kết quả điều trị bệnh nhân từ kéo dài thời gian sống, cải thiện chất lượng cuộc sống đến nâng cao cơ hội chữa bệnh.

Bên cạnh đó, thử nghiệm lâm sàng cũng góp phần tích cực vào công tác chẩn đoán, điều trị và tạo nên mảnh ghép còn thiếu cho thực hành lâm sàng thường quy, giúp cho nhiều người bệnh có thêm những cơ hội tiếp cận thuốc mới, giảm chi phí điều trị cho người bệnh và hệ thống y tế"- Thứ trưởng Nguyễn Thị Liên Hương nói.

Bộ Y tế luôn nhìn nhận việc thúc đẩy nghiên cứu khoa học, phát triển sản phẩm mới là một trong những ưu tiên hàng đầu. Trong thời gian qua Bộ Y tế đã xây dựng, hoàn thiện hành lang pháp lý cho hoạt động này.

Trên cơ sở đó thực hiện việc chuẩn hóa, đánh giá và cấp Giấy chứng nhận thực hành lâm sàng tốt (GCP) cho các cơ sở nhận thử nghiệm lâm sàng và tăng cường năng lực cho đội ngũ nghiên cứu viên để tạo điều kiện thúc đẩy triển khai các nghiên cứu phát triển sản phẩm mới, thử nghiệm lâm sàng đảm bảo chất lượng và theo chuẩn quốc tế.

TS.BS Đỗ Anh Tú - Phó Giám đốc Bệnh viện K (ngồi giữa) chủ trì phiên thảo luận cùng các chuyên gia trong nước và quốc tế.

TS.BS Đỗ Anh Tú - Phó Giám đốc Bệnh viện K (ngồi giữa) chủ trì phiên thảo luận cùng các chuyên gia trong nước và quốc tế.

TS.BS Nguyễn Ngô Quang, Quyền Cục trưởng Cục Khoa học Công nghệ và Đào tạo (Bộ Y tế) đánh giá cao sự hợp tác và trao đổi kinh nghiệm giữa các đơn vị y tế trong nước với các cơ quan, tổ chức quốc tế trong hoạt động nghiên cứu lâm sàng, không chỉ nâng cao hiệu quả điều trị mà còn mang lại hy vọng sống cho nhiều bệnh nhân.

"Ở Việt Nam, số lượng nghiên cứu lâm sàng đã tăng nhanh chóng trong những năm gần đây, thể hiện sự nỗ lực và cam kết của các nhà khoa học, bác sĩ và cả hệ thống y tế. Sự tăng trưởng này là minh chứng cho tiềm năng và khát vọng phát triển của chúng ta trong lĩnh vực y tế, phản ánh một nền y tế đang phát triển mạnh mẽ, sẵn sàng hội nhập và cạnh tranh với khu vực và thế giới "- TS Nguyễn Ngô Quang nói.

Phát biểu tại hội thảo, ông Atul Tandon, Tổng Giám đốc AstraZeneca Việt Nam chia sẻ: "Nghiên cứu lâm sàng là nền tảng để mang lại những phương thuốc làm thay đổi cuộc sống, chính vì vậy, chúng tôi luôn ưu tiên đầu tư phát triển hoạt động này tại Việt Nam.

Vào năm 2023, AstraZeneca và Bộ Y tế đã ký kết hợp tác chiến lược kéo dài 5 năm nhằm thắt chặt mối quan hệ song phương và thúc đẩy hợp tác toàn diện trong nghiên cứu và phát triển, sản xuất dược phẩm, phòng và kiểm soát bệnh tật, và phát triển hệ thống y tế bền vững.

"Thực tế, chúng tôi cũng rất tự hào ở Việt Nam về việc thanh tra nghiên cứu của Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ diễn ra tại hai cơ sở vào năm ngoái, kết quả mà không cần thực hiện thêm biện pháp nào. Đây là niềm tự hào của cả Việt Nam khi đã thực sự đưa nghiên cứu lâm sàng lên một tầm cao mới, đạt được sự tin tưởng cao từ cộng đồng quốc tế"- ông Atul Tandon nói.

Ông Atul Tandon phát biểu.

Ông Atul Tandon phát biểu.

Từ kết quả nghiên cứu lâm sàng mở ra nhiều cơ hội trong điều trị bệnh

Nghiên cứu lâm sàng là một giai đoạn quan trọng và cần thiết trong quá trình nghiên cứu và phát triển các giải pháp điều trị hoặc các loại dược phẩm mới, góp phần thay đổi thực hành điều trị, đem lại những tác động tích cực đến sức khỏe con người. Hiện nay, trên thế giới đang có hơn 67 ngàn nghiên cứu đã và đang thực hiện, trong đó có nhiều nghiên cứu của AstraZeneca đang được triển khai tại Việt Nam với sự tham gia của hơn 6.500 bệnh nhân.

Các nghiên cứu được thực hiện trên nhiều bệnh lý khác nhau, đặc biệt là các bệnh không lây nhiễm như ung thư phổi, vốn có tỷ lệ mắc mới cao nhất thế giới và thứ 3 tại Việt Nam.

Tạị hội nghị, TS.BS Đỗ Anh Tú - Phó Giám đốc Bệnh viện K cho hay tỷ lệ mắc ung thư phổi trên toàn thế giới là 12,4%, tỷ lệ tử vong là 8,7%. Tại Việt Nam, ung thư phổi có tỷ lệ mắc đứng thứ 3 sau ung thư gan và ung thư vú, tuy nhiên tỷ lệ tử vong đứng hàng thứ 2.

Theo thống kê, tại Việt Nam tỉ lệ mắc ung thư phổi có số ca mắc mới khoảng 26.262 và 23.797 ca tử vong vì căn bệnh này. Ung thư phổi được chia thành hai loại chính là ung thư phổi tế bào nhỏ (chiếm khoảng 10-15%) và ung thư phổi không tế bào nhỏ (chiếm khoảng 85%).

Thứ trưởng Nguyễn Thị Liên Hương cùng các chuyên gia trong nước và quốc tế tại hội nghị.

Thứ trưởng Nguyễn Thị Liên Hương cùng các chuyên gia trong nước và quốc tế tại hội nghị.

"Điều này cho thấy ung thư phổi vẫn là gánh nặng trên toàn cầu cũng như tại Việt Nam"- TS.BS Đỗ Anh Tú nói và cho biết thêm hiện ở nước ta chưa có chương trình sàng lọc quốc gia, tuy nhiên nhờ những nỗ lực trong chẩn đoán, tỷ lệ phẫu thuật được đối với bệnh ung thư phổi ngày càng gia tăng, với tỷ lệ thống kê chưa đầy đủ khoảng từ 25-30%.

Cũng theo bác sĩ Tú, trước đây việc chẩn đoán, điều trị ung thư phổi để mong muốn kéo dài sự sống, tuy nhiên hiện nay nếu phát hiện sớm, điều trị sớm, ung thư phổi đã có thể chữa khỏi.

"Chúng ta đang sống trong kỷ nguyên điều trị đích, điều trị miễn dịch, tuy nhiên các liệu pháp điều trị truyền thống vẫn là xương sồng đó là hóa trị, xạ trị, phẫu thuật. Cả phương pháp kinh điển và những phương pháp mới kết hợp với nhau để nâng cao hiệu quả điều trị cho bệnh nhân.

Trước đây ung thư phổi giai đoạn muộn chỉ có thể tính bằng tháng, hiện nay người bệnh đã có thể kéo dài cuộc sống lên thành hàng năm, thậm chí nhiều năm. Để có được kết quả này phải khẳng định ý nghĩa quan trọng của các thử nghiệm lâm sàng để ứng dụng kết quả vào điều trị người bệnh ung thư"- Phó Giám đốc Bệnh viện K nói.

Tại Việt Nam, ung thư phổi có tỷ lệ mắc đứng thứ 3 sau ung thư gan và ung thư vú, tuy nhiên tỷ lệ tử vong đứng hàng thứ 2.

Tại Việt Nam, ung thư phổi có tỷ lệ mắc đứng thứ 3 sau ung thư gan và ung thư vú, tuy nhiên tỷ lệ tử vong đứng hàng thứ 2.

Tại hội nghị, nhiều kết quả nghiên cứu được đồng tổ chức triển khai tại Việt Nam đã được báo cáo với kết quả tích cực, đánh dấu sự tiến bộ rõ nét trong điều trị ung thư phổi nói riêng và trong phòng chống ung thư nói chung. Đồng thời cập nhật các kết quả của nghiên cứu lâm sàng lớn được báo cáo gần đây tại các hội nghị lớn trên thế giới. Các phương pháp điều trị đã được thay đổi một cách mạnh mẽ sau kết quả của nghiên cứu này

Đơn cử là nghiên cứu ADAURA trên bệnh nhân ung thư phổi ở giai đoạn sớm mà Việt Nam đã tham gia từ năm 2015 đến nay. Đây là nghiên cứu Pha III đầu tiên chứng minh lợi ích của thuốc osimertinib trên thời gian sống còn toàn bộ (OS), cũng như thời gian sống còn không bệnh (DFS) của nhóm bệnh nhân ung thư phổi giai đoạn sớm. Ví dụ, trong dữ liệu cập nhật vào tháng 1/2023 cho thấy DFS trung vị 65.8 tháng so với 28.1 tháng ở nhóm giả dược (tỷ số số chênh (HR) 0.27 (0.21, 0.34), khoảng tin cậy (CI) 95%)*.

Theo các chuyên gia về ung thư, trong số nhiều nghiên cứu lâm sàng được thực hiện ở Việt Nam, nghiên cứu trên bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn bệnh tiến triển tại chỗ quá chỉ định phẫu thuật là một trong những nghiên cứu được báo cáo tại Hội nghị ASCO 2024 (Hội nghị Thường niên của Hiệp hội Ung thư Lâm sàng Hoa Kỳ diễn ra từ ngày 31/5 - 4/6), quy tụ hơn 40,000 chuyên gia ung thư trên toàn cầu, trình bày hàng ngàn nghiên cứu tiên tiến vừa diễn ra tại Hoa Kỳ.

Kết quả nghiên cứu vượt ngoài sự mong đợi với thời gian sống thêm cho bệnh nhân không tiến triển bệnh không chỉ là vài tháng mà đến 39,1 tháng. Đây là thành quả của sự hợp tác và nỗ lực chung của các nghiên cứu viên ở nhiều bệnh viện trên cả nước.

Bài và ảnh Thái Bình

Nguồn SK&ĐS: https://suckhoedoisong.vn/nghien-cuu-lam-sang-ve-thuoc-moi-mang-lai-hieu-qua-tich-cuc-trong-dieu-tri-ung-thu-phoi-169240623134425395.htm