Lộ trình giảm phát thải – dệt may cần cất bước ngay từ lúc này
Ngành Dệt may Việt Nam đặt mục tiêu giảm 15% lượng điện và 20% lượng nước tiêu thụ đến năm 2030. Thế nhưng, áp lực của người tiêu dùng và người mua hàng thế giới buộc các doanh nghiệp nhỏ và vừa của ngành này phải hành động ngay. Lộ trình này đòi hỏi sự kiên định, chiến lược thực hiện theo từng bước một vững chãi.
Dệt may là ngành gây ô nhiễm môi trường lớn thứ hai trên thế giới về lượng khí thải, nước thải và chất thải rắn, chỉ sau ngành thép. Ngành dệt may Việt Nam có khoảng 7.000 doanh nghiệp, tạo ra khoảng 5 triệu tấn CO2 hàng năm. Dệt may Việt Nam đặt mục tiêu giảm 15% lượng điện và 20% lượng nước tiêu thụ đến năm 2030 - nghĩa là chỉ còn khoảng năm năm. Lộ trình này thật sự là một thách thức đối với các doanh nghiệp ngành dệt may khi mà trước mắt còn rất nhiều việc khó phải làm nhưng theo các chuyên gia là có thể thực hiện được miễn chúng ta kiên định, có chiến lược và làm từng bước chắc chắn.
Ba bộ tiêu chí “khó nhằn”
Tại cuộc hội thảo kỹ thuật “Làm chủ hành trình phát thải thấp: Higg FEM - MCAP - SBTi cho nhà máy dệt may và da giày” tại TPHCM hôm 25-7 do hãng tư vấn, kiểm định SGS Vietnam tổ chức, các chuyên gia cho biết, các doanh nghiệp trong nước đang áp dụng cùng một lúc ba bộ tiêu chí liên quan đến giảm phát thải với sự chuẩn bị thời gian, nhân lực và tài chính khác nhau.

Trong một xưởng may tư nhân tại TPHCM. Dệt may hiện là ngành gây ô nhiễm thứ hai trên thế giới, sau ngành thép. Tại Việt Nam, ngành dệt may thải ra 5 triệu tấn CO2 mỗi năm. Ảnh: Phil Wen
Higg FEM là bộ công cụ đo lường và báo cáo hiệu suất môi trường tại nhà máy ra đời năm 2014 do Liên minh may mặc bền vững (Cascale) đề ra năm 2014. Bộ tiêu chí chủ yếu là phần tự đánh giá của doanh nghiệp, có thể áp dụng ngay trong 3-6 tháng.
Tuy vậy, đến thời điểm hiện tại, bộ tiêu chí này đã ra đến phiên bản thứ tư với độ khó ngày càng cao hơn, đòi hỏi “sự dày công chuẩn bị của doanh nghiệp bởi số câu hỏi đã tăng gấp bội”, theo lời chuyên gia kiểm toán và đào tạo Nguyễn Sỹ Quốc Văn tại cuộc hội thảo nói trên. Chẳng hạn, tổng số câu hỏi ở phiên bản thứ tư là 176, so với 83 của phiên bản thứ ba và 57 của phiên bản thứ hai. Ở phiên bản mới nhất, số câu hỏi đã lên đến 30 với rác thải, 31 với nước thải và hóa chất.
Bộ tiêu chí thứ hai là MCAP (Chương trình hành động khí hậu của nhà sản xuất) ra đời năm 2024 dựa trên một chương trình do Nike và Viện Tài nguyên thế giới (WRI) phát triển, nhằm hỗ trợ cho các nhà sản xuất thuộc chuỗi cung ứng dệt may và da giày xây dựng các mục tiêu giảm phát thải phù hợp và khoa học. MCAP thực hiện trong trung và dài hạn, nhằm cung cấp kiến thức, chuyên gia và có thể là hỗ trợ tài chính để nhà máy triển khai các giải pháp sử dụng năng lượng hiệu quả hay đưa năng lượng tái tạo vào sản xuất…
Ra đời sớm hơn bộ MCAP là STBi vào năm 2015. Đây là sáng kiến các mục tiêu dựa trên các nghiên cứu khoa học với quy mô áp dụng toàn cầu và cho tất cả mọi ngành. Bộ tiêu chí này đòi hỏi cam kết có lộ trình dài hạn 2-5 năm và phức tạp nhất, ông Nguyễn Sỹ Quốc Văn giải thích.
Theo đó, doanh nghiệp phải gửi thư cam kết, phát triển mục tiêu giảm phát thải ở ba Phạm vi 1, 2 và 3, gửi mục tiêu để thẩm định và thực hiện báo cáo hàng năm. Thách thức lớn nhất là phát thải Phạm vi 3, bao gồm toàn bộ chuỗi giá trị từ nguyên liệu thô, sản xuất, vận chuyển, đến khâu sử dụng và thải bỏ sản phẩm. “Doanh nghiệp phải có đội ngũ chuyên gia phát triển bền vững riêng hoặc phải thuê hãng tư vấn chuyên nghiệp. Quá trình này đòi hỏi năng lực phân tích dữ liệu phức tạp và khả năng tác động, hợp tác với hàng trăm, thậm chí hàng ngàn nhà cung cấp trên toàn bộ chuỗi cung ứng”, ông Quốc Văn nói.
Áp lực của ngành
Dệt may Việt Nam hiện là một trong những ngành xuất khẩu chủ lực, với khoảng 7.000 doanh nghiệp có từ 10 lao động trở lên, sử dụng hơn 3,4 triệu lao động trên toàn quốc, theo Hiệp hội Dệt may Việt Nam (Vitas). Trong số này, có khoảng 70% doanh nghiệp gia công, 6% sản xuất sợi, 17% thuộc lĩnh vực dệt và 4% cho công đoạn nhuộm… Về tổng thể, 85% doanh nghiệp cần chuyển đổi sang mô hình sản xuất FOB. Đây là phương thức mà nhà máy tại Việt Nam chịu trách nhiệm từ A-Z, từ khâu mua nguyên liệu đến khi ra thành phẩm cuối cùng. Mục đích là để chủ động nguồn cung và nâng cao giá trị sản phẩm.

Có khoảng 7.000 doanh nghiệp dệt may tại Việt Nam, sử dụng 3,4 triệu lao động. Việt Nam thuộc top 3 các nước xuất khẩu dệt may lớn nhất thế giới, cũng thuộc nhóm có mức phát thải cao trong ngành dệt may trên toàn cầu. Ảnh: TexTalks
Tuy nhiên, dệt may cũng là ngành phát thải lớn tại Việt Nam, với trên 5 triệu tấn CO2 mỗi năm. Việt Nam cũng thuộc nhóm có mức phát thải cao trong ngành dệt may trên toàn cầu bởi nằm trong nhóm 3 nước xuất khẩu dệt may lớn nhất thế giới. Các quy trình xử lý ướt hàng dệt may (sợi, vải và hàng may) cần rất nhiều tài nguyên nước cho các khâu giặt giũ, tiền xử lý, nhuộm và hoàn tất sau xử lý(1).
Một báo cáo về chuỗi cung ứng của Nike vào năm 2020 cho thấy, các nhà cung cấp thành phẩm (bao gồm cả da giày) chiếm tới 53% tổng lượng phát thải trong toàn bộ chuỗi cung ứng, chủ yếu là sử dụng năng lượng trong sản xuất. Số liệu mới nhất đến tháng 6-2025 cho thấy Nike sản xuất 600 triệu đôi giày mỗi năm, trong đó 50% được sản xuất tại Việt Nam và 50% nguyên liệu cho chuỗi cung ứng toàn cầu của Nike cũng đến từ Việt Nam. Số lượng công nhân của tập đoàn này tại Việt Nam khoảng 450.000 người, chiếm hơn 13% tổng nhân công của toàn ngành(2).
Áp lực chuyển đổi xanh của ngành dệt may, da giày Việt Nam vì thế không hề nhỏ nhưng doanh nghiệp có một chiến lược phát thải rõ ràng sẽ có thể tận dụng được một số cơ hội hiện có.
“Nike, Adidas hay những thương hiệu thời trang thể thao hàng đầu đã yêu cầu nhà cung ứng phải có lộ trình giảm phát thải cụ thể. Nhà mua hàng quốc tế ưu tiên ký hợp đồng dài hạn 3-5 năm với nhà cung ứng có mục tiêu SBTi hoặc tham gia MCAP. Ngân hàng và các tổ chức tài chính trong và ngoài nước đang áp dụng các tiêu chí ESG rộng rãi hơn và chỉ hỗ trợ cho doanh nghiệp có chiến lược phát thải rõ ràng”, ông Tô Thanh Sơn - Giám đốc ESG của SGS Vietnam - nhấn mạnh.
Không chỉ các nhãn hàng phương Tây khắt khe. Ngay với một sàn mua bán được xem là dễ tính như Shein cũng đặt ra mục tiêu ngắn hạn đến năm 2030 cho nhà cung ứng: giảm 42% khí thải Phạm vi 1 và 2, 25% khí Phạm vi 3 và đạt 100% sử dụng năng lượng tái tạo trong các hoạt động sản xuất trực tiếp. Và hầu hết các nhà cung ứng chuỗi dệt may, da giày tại Việt Nam thuộc hàng “cao tuổi”, đòi hỏi quá trình chuyển đổi xanh nhanh và hiệu quả.
“Nhà máy của chúng tôi đã hoạt động từ năm 2002. Có cách nào chúng tôi tăng tính hiệu quả của sử dụng năng lượng tái tạo tại nhà máy”, đại diện của một công ty ở Bình Dương (cũ), đặt câu hỏi cho các chuyên gia ở cuộc hội thảo. Đây là hãng cung ứng loại 2, chuyên sản xuất đế giày cho cả Nike và Adidas.
“Sử dụng năng lượng tái tạo là yêu cầu bắt buộc, không thể tránh và không nên trì hoãn. Hoặc doanh nghiệp chọn một khu công nghiệp xanh, với nguồn cung năng lượng tái tạo ổn định hoặc mua từ nguồn khác. Hoặc doanh nghiệp phải tự đầu tư cho điện mặt trời mái nhà”, ông Tô Thanh Sơn trả lời.
Từ năm 2020, SBTi đã đặt mục tiêu cho doanh nghiệp vào năm 2030 là giảm 42% khí thải Phạm vi 1 và 2. “Nếu tính tốc độ thì doanh nghiệp chỉ cần thực hiện 4,2% mỗi năm. Nếu từ bây giờ chúng ta mới bắt đầu thì buộc phải tăng tốc độ. Giảm phát thải để đạt các mục tiêu đề ra là hành trình dài, và chúng ta cần bắt đầu từ từng bước nhỏ một”, ông Phương Năng Khoa, Giám đốc sản phẩm ESG của SGS Vietnam, trả lời.
Ông nói có khi đó là các sáng kiến nhỏ nhằm sử dụng hợp lý nước tại nhà vệ sinh trong khu vực sản xuất (nhằm giảm lượng CO2 và methan từ nước thải bị phân hủy), sử dụng nước tái chế, giảm lượng khí thải và chất thải rắn…
Tái chế sản phẩm thời trang, may mặc cũng là vấn đề mới doanh nghiệp cần quan tâm trong khí thải Phạm vi 3, theo lời ông Khoa.
Hiện tại, chỉ khoảng 60% chất thải dệt may được tái chế, chủ yếu thông qua tái chế cơ học cơ bản, tạo ra các sản phẩm chất lượng thấp hơn. Hệ thống tái chế dệt may của Việt Nam gồm hơn 200 cơ sở, bao gồm các nhà thu gom, tiền xử lý và tái chế. Mạng lưới này còn phân mảnh và thiếu minh bạch, nhưng đây là cơ hội và nguồn nguyên liệu tiềm năng lớn cho các startup Việt Nam - theo Tổ chức Hợp tác Quốc tế Đức (GIZ).
“Mượn” sức người
SBTi giống như hoa tiêu, đặt ra mục tiêu và xác định đích đến, còn Higg FEM là công cụ đo lường, MCAP là quá trình hỗ trợ thực thi - các chuyên gia của SGS Vietnam giải thích. Chi phí cho ba bộ tiêu chí này khác nhau, theo các trang của Cascale, MCAP và SBTi.
Với Higg FEM, doanh nghiệp phải trả phí dịch vụ xác minh riêng và 300 đô la mà hãng tư vấn thu hộ cho Cascale. Phí MCAP lên đến 7.600 đô la với mỗi doanh nghiệp và doanh nghiệp có thể nhận tài trợ như đã nói ở trên. Phí SBTi dao động từ 1.000-9.500 đô la tùy vào quy mô doanh nghiệp.
“Doanh nghiệp có doanh số dưới 10 triệu đô la có thể nhận tài trợ 85% từ nhãn hàng thông qua hãng dịch vụ”, ông Tô Thanh Sơn nói.
Ngoài các chương trình vốn xanh của các tổ chức và định chế tài chính ngân hàng trong và ngoài nước, doanh nghiệp Việt còn có thể tiếp cận nguồn vốn xanh thông qua các đại sứ quán nước ngoài ở Hà Nội hoặc các tổ chức phát triển quốc tế tại Việt Nam như GIZ của Đức, JICA của Nhật Bản, KOICA của Hàn Quốc, Oxfarm của Anh…
“Các chương trình phát triển bền vững này có khi dưới tên các kế hoạch giảm nghèo, hỗ trợ phụ nữ và trẻ em, hay bình đẳng giới”, Tiến sĩ Trần Minh Hải, Phó hiệu trưởng Trường Chính sách công và phát triển nông thôn, trao đổi với Kinh tế Sài Gòn trong một sự kiện hồi tháng 5 vừa rồi tại TPHCM.
(1) https://www.giz.de/de/downloads/giz2025-en-ecosystem-mapping.pdf
(2) https://baodautu.vn/viet-nam-san-xuat-50-san-luong-toan-cau-cho-hang-giay-my-d302873.html