Kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục đại học: Điều chỉnh phù hợp với xu thế
Bộ Giáo dục và Đào tạo (GDĐT) đang lấy ý kiến cho Dự thảo Thông tư thay thế Thông tư 12/2017 về kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục đại học (ĐH). Dự thảo này đề xuất nhiều điều chỉnh quan trọng, dự kiến sẽ tác động sâu rộng đến hoạt động kiểm định tại các cơ sở giáo dục ĐH.

Một tổ chức kiểm định quốc tế làm việc tại Trường ĐH Tôn Đức Thắng. Ảnh: TDTU.
Lộ trình cải tiến chất lượng
Một trong những điều chỉnh của Dự thảo Thông tư so với quy định hiện hành là thay đổi cách đánh giá các tiêu chuẩn, tiêu chí từ thang đánh giá 7 mức (tương ứng 7 điểm) sang 2 mức Đạt và Không đạt. Kết quả đánh giá cơ sở giáo dục ĐH cũng được bổ sung thêm cơ chế “Đạt có điều kiện”, bên cạnh 2 mức “Đạt” và “Không đạt” như cũ. Đối với cơ chế “đạt có điều kiện”, cơ sở giáo dục ĐH phải thực hiện cải tiến chất lượng và hoàn thiện trong thời gian từ 12 - 24 tháng kể từ ngày được công nhận. Từ phía các nhà trường, chuyên gia đều ủng hộ sự điều chỉnh này bởi giúp giảm áp lực cho các trường, tránh việc kiểm định lại toàn bộ mất thời gian cũng như thể hiện cách tiếp cận kiểm định như một quá trình đồng hành, thay vì một phán quyết khô cứng.
TS Phan Đức Tuấn - Phó Hiệu trưởng Trường ĐH Sư phạm (ĐH Đà Nẵng) nhìn nhận, so với thang 7 mức trước đây rất chi tiết nhưng cũng khiến nhiều trường gặp khó khăn trong việc phân biệt giữa các mức điểm. Với chỉ 2 mức Đạt/Không đạt tạo nên sự rõ ràng, minh bạch, dễ áp dụng và so sánh giữa các trường. Tương tự, việc bổ sung Đạt có điều kiện cũng giúp tạo cơ chế khuyến khích cải tiến cho các trường ĐH, công nhận những gì trường đã làm được và cần khắc phục những điểm nào.
Hai phương án mới được đề xuất tại Dự thảo là đánh giá có hoặc không có tiêu chí điều kiện. Trong đó, phương án xác định một số tiêu chí điều kiện – những tiêu chí cốt lõi bắt buộc phải đạt, để bảo đảm các trường chú trọng tới nền tảng hệ thống và trách nhiệm giải trình để tương thích với quy định tại Thông tư số 04/2025 quy định về kiểm định chương trình đào tạo các trình độ của giáo dục ĐH.
Theo Bộ GDĐT đánh giá, hệ thống văn bản pháp luật về công tác bảo đảm, kiểm định chất lượng giáo dục ĐH còn chậm điều chỉnh, thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng thực tiễn. Vì vậy, việc Dự thảo đề xuất các thay đổi phù hợp với các quy định mới là hợp lý và cần được nghiên cứu kỹ lưỡng, đặt trong tinh thần Nghị quyết 71 và Luật Giáo dục ĐH sửa đổi đang được lấy ý kiến rộng rãi. Trong đó, nhấn mạnh yêu cầu “đột phá” trong tổ chức và quản trị hệ thống, hướng đến một nền giáo dục ĐH tinh gọn, hiệu quả, tự chủ thực chất và gắn kết chặt chẽ với chiến lược phát triển quốc gia như Nghị quyết 71 của Bộ Chính trị nêu.
Chú trọng công tác hậu kiểm
Tại Hội nghị Giáo dục ĐH năm 2025 do Bộ GDĐT vừa tổ chức, công tác bảo đảm, kiểm định chất lượng giáo dục ĐH được đánh giá đã đạt nhiều kết quả tích cực, góp phần nâng cao kết quả xếp hạng quốc tế của giáo dục ĐH Việt Nam.
Một số kết quả nổi bật như về kiểm định chương trình đào tạo, tính đến ngày 31/12/2024, cả nước đã có 2.224/hơn 6.000 chương trình đào tạo các trình độ của giáo dục ĐH đạt kiểm định chất lượng giáo dục. Số lượng chương trình đạt kiểm định quốc tế đã đạt hơn 600.
Về kiểm định cơ sở giáo dục ĐH, hầu hết các cơ sở đã hoàn thành chu kỳ kiểm định thứ nhất, đã và đang trong giai đoạn kiểm định chu kỳ hai. Tuy nhiên, vẫn còn một số trường chưa thực hiện kiểm định chất lượng giáo dục.
Về đội ngũ kiểm định viên, hiện cả nước có khoảng 600 kiểm định viên, cơ bản đảm bảo đủ số lượng và năng lực để thực hiện kiểm định trên phạm vi toàn quốc, có thể bao quát các lĩnh vực đào tạo, trừ một số ngành, lĩnh vực đặc thù. Đặc biệt, một số kiểm định viên của Việt Nam đã đạt chuẩn kiểm định viên quốc tế theo các tổ chức như AUN-QA, ABET, FIBAA, ASIIN.
Tuy vậy, việc giám sát các tổ chức kiểm định mới dừng ở mức độ nhất định, hiệu lực quản lý chưa cao. Một số cơ sở giáo dục đã có đơn vị chuyên trách nhưng hoạt động còn hình thức, cải tiến chất lượng chưa gắn chặt chiến lược phát triển của cơ sở giáo dục. Số cơ sở và chương trình được công nhận tăng nhưng chưa cân đối theo lĩnh vực, nhóm ngành đào tạo, tham gia kiểm định theo chuẩn quốc tế còn hạn chế. Đội ngũ kiểm định viên bổ sung nhưng vẫn thiếu về số lượng, chuyên môn và kinh nghiệm, chưa đáp ứng yêu cầu hội nhập…
Từ thực tế này, các chuyên gia kiến nghị cần tiếp tục nâng cao năng lực đội ngũ kiểm định để đưa ra khuyến nghị sát thực, khả thi và đồng hành cùng các trường trong việc khắc phục các điều kiện chưa đạt. Trong đó, Dự thảo bổ sung các trường hợp thu hồi giấy chứng nhận kiểm định, đồng thời làm rõ trách nhiệm của cơ sở giáo dục, tổ chức kiểm định và cơ quan quản lí trong việc giám sát sau đánh giá được đánh giá là phù hợp trong bối cảnh hiện nay.
Trong bối cảnh Việt Nam đang sửa đổi Luật Giáo dục ĐH và nhiều luật liên quan, công tác kiểm định chất lượng giữ vai trò đặc biệt quan trọng, là “xương sống” bảo đảm sự phát triển bền vững của hệ thống. TS Lê Đông Phương - nguyên Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Giáo dục ĐH (Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam) nhìn nhận trước đó, Dự thảo Luật Giáo dục ĐH sửa đổi nêu các cơ sở giáo dục ĐH được quyền lựa chọn tổ chức kiểm định chất lượng, có thể là trong nước hoặc quốc tế là hợp lý để có cơ sở so sánh thực chất với chuẩn quốc tế, thay vì lâu nay vẫn nói các chương trình đào tạo “đạt chuẩn quốc tế” nhưng lại không rõ đạt ở mức nào. Cùng với Dự thảo Thông tư đang được lấy ý kiến, để hoàn thiện cơ chế hậu kiểm, cần công khai báo cáo tự đánh giá kiểm định chất lượng và giấy chứng nhận kiểm định chất lượng giáo dục trên trang thông tin điện tử để toàn xã hội cùng giám sát.