Hiện thực hóa Nghị quyết 66: Thiết lập các cơ chế bảo vệ sự liêm chính trong thi hành pháp luật

Kiểm soát quyền lực, phòng chống tham nhũng và lãng phí có vai trò quan trọng, góp phần đảm bảo hiệu lực và hiệu quả của việc thi hành pháp luật.

Nghị quyết 66-NQ/TW ngày 30-4-2025 của Bộ Chính trị đề cao yêu cầu tập trung xây dựng văn hóa xây dựng pháp luật, bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật trở thành chuẩn mực ứng xử của mọi chủ thể trong xã hội.

Thượng tôn pháp luật là nguyên lý cốt lõi của một nhà nước pháp quyền hiện đại. Tại Việt Nam, chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân đã được khẳng định trong các văn kiện chính trị và Hiến pháp năm 2013.

Để tinh thần thượng tôn pháp luật thực sự trở thành thực tiễn sống động, công tác thi hành pháp luật phải được nâng cao về cả hiệu lực lẫn hiệu quả.

Tăng cường trách nhiệm của người đứng đầu

Tăng cường trách nhiệm của người đứng đầu trong thi hành pháp luật là then chốt để phá vỡ vòng luẩn quẩn “trách nhiệm tập thể”.

 Tham nhũng là một trong những nguy cơ lớn nhất dẫn đến sự tha hóa quyền lực, làm suy yếu toàn diện việc thi hành pháp luật. Trong ảnh: Các bị cáo trong phiên xét xử sơ thẩm vụ án xảy ra tại Công ty Xuyên Việt Oil và các đơn vị liên quan. Ảnh: THUẬN VĂN

Tham nhũng là một trong những nguy cơ lớn nhất dẫn đến sự tha hóa quyền lực, làm suy yếu toàn diện việc thi hành pháp luật. Trong ảnh: Các bị cáo trong phiên xét xử sơ thẩm vụ án xảy ra tại Công ty Xuyên Việt Oil và các đơn vị liên quan. Ảnh: THUẬN VĂN

Một trong những điểm nghẽn cố hữu của công tác thi hành pháp luật tại Việt Nam hiện nay là trách nhiệm của người đứng đầu còn mang tính hình thức, dễ bị “hòa tan” trong cơ chế tập thể, dẫn đến tình trạng sai phạm không ai chịu trách nhiệm cụ thể. Trong khi đó, nguyên tắc “cá thể hóa trách nhiệm” là nền tảng trong quản trị công hiện đại, nhất là trong bộ máy hành chính nhà nước. Chính vì vậy, cần ban hành văn bản quy phạm pháp luật chuyên biệt về trách nhiệm thi hành pháp luật của người đứng đầu trong từng lĩnh vực quản lý. Quy định này phải xác lập rõ nghĩa vụ pháp lý, chế tài vi phạm và giới hạn trách nhiệm ủy quyền, tránh tình trạng người đứng đầu né tránh trách nhiệm bằng cách đẩy cho cấp dưới.

Bên cạnh đó, cần thiết lập cơ chế kiểm điểm định kỳ và đối thoại công khai về kết quả thực thi pháp luật, đặc biệt trong các lĩnh vực dễ phát sinh khiếu nại, tiêu cực hoặc liên quan đến quyền lợi của người dân.

 Thực tế cho thấy tòa án áp dụng AI đã giải quyết được các vụ án rút gọn, đảm bảo tính nhanh chóng, gọn nhẹ. Trong ảnh: Ông Nguyễn Cao Trí, Tổ số hóa TAND khu vực I (TP.HCM), đang làm việc trên hệ thống công nghệ AI nội bộ. Ảnh: NGUYỄN CHÍNH

Thực tế cho thấy tòa án áp dụng AI đã giải quyết được các vụ án rút gọn, đảm bảo tính nhanh chóng, gọn nhẹ. Trong ảnh: Ông Nguyễn Cao Trí, Tổ số hóa TAND khu vực I (TP.HCM), đang làm việc trên hệ thống công nghệ AI nội bộ. Ảnh: NGUYỄN CHÍNH

Mỗi quý, người đứng đầu phải có báo cáo đánh giá kết quả thi hành pháp luật trong phạm vi phụ trách, công khai rộng rãi và chịu trách nhiệm trả lời chất vấn từ cơ quan giám sát hoặc đại diện nhân dân. Cơ chế này không chỉ nâng cao trách nhiệm giải trình mà còn tạo áp lực buộc người đứng đầu hành động thực chất, thay vì báo cáo thành tích hình thức.

Hoàn thiện cơ chế bảo vệ lợi ích công cộng

Xét xử các vụ án hành chính là cơ chế để TAND thẩm tra hoạt động thực thi pháp luật của các cơ quan quản lý nhà nước, qua đó loại bỏ các quyết định quản lý sai trái, buộc cơ quan, người có thẩm quyền thực thi đúng nhiệm vụ, công vụ được giao. Tuy nhiên, đây là quyền mang tính chất thụ động của tòa án và cần được khởi xướng bằng cơ chế khởi kiện hành chính của người dân.

Hiện nay theo quy định của Luật Tố tụng hành chính, chủ thể khởi kiện phải có quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm trực tiếp. Quy định này tuy phù hợp với nguyên tắc “cá nhân hóa quyền và lợi ích” trong tố tụng truyền thống nhưng lại bỏ ngỏ các trường hợp cần khởi kiện để bảo vệ lợi ích công cộng - chẳng hạn như ô nhiễm môi trường, xây dựng trái phép, xâm phạm di tích văn hóa.

Luật hóa nghĩa vụ tiếp nhận, phân tích và phản hồi ý kiến người dân

Phản hồi của người dân là quyền hiến định về giám sát quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, hiện nay phần lớn cơ chế phản hồi dừng lại ở các cuộc khảo sát hình thức hoặc các kênh góp ý không có giá trị pháp lý ràng buộc. Do đó, cần luật hóa nghĩa vụ tiếp nhận, phân tích và phản hồi ý kiến người dân đối với hoạt động thi hành pháp luật - đặc biệt trong các lĩnh vực có ảnh hưởng trực tiếp như đất đai, xây dựng, tư pháp, hành chính.

Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 đã quy định nghĩa vụ lấy ý kiến đối tượng chịu sự tác động nhưng chủ yếu mới áp dụng trong quá trình xây dựng luật. Cần mở rộng nghĩa vụ này sang cả giai đoạn tổ chức thực thi sẽ tạo nên một vòng phản hồi khép kín, đảm bảo pháp luật không bị “đóng băng” trong thi hành.

Trong những trường hợp này, thiệt hại không thuộc về một cá nhân cụ thể nên người dân riêng lẻ khó có đủ cơ sở để chứng minh “quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm” nhằm thỏa mãn điều kiện khởi kiện. Điều này tạo ra khoảng trống pháp lý trong việc bảo vệ các giá trị chung của cộng đồng, các quyết định hành chính, hành vi hành chính trái pháp luật của cơ quan thực thi pháp luật cũng vì vậy không bị xử lý kịp thời.

Chính vì vậy, để hoàn thiện pháp luật theo tinh thần của Nghị quyết 66 cần nghiên cứu mở rộng quyền được khởi kiện của các tổ chức nhằm bảo vệ lợi ích cộng đồng.

Thiết lập cơ chế tự kiểm soát và kiểm soát lẫn nhau

Kiểm soát quyền lực, phòng chống tham nhũng và lãng phí có vai trò quan trọng, tạo thành một hệ thống chặt chẽ nhằm đảm bảo hiệu lực và hiệu quả của việc thi hành pháp luật.

Trong một nhà nước pháp quyền, quyền lực không thể được trao một cách tuyệt đối mà cần được giới hạn và kiểm soát chặt chẽ bằng pháp luật. Con người không phải là thánh thần, do đó quyền lực luôn tiềm ẩn nguy cơ bị lạm dụng, chuyển hóa thành công cụ phục vụ lợi ích cá nhân hoặc nhóm. Vì vậy, việc thiết lập cơ chế tự kiểm soát và kiểm soát lẫn nhau hiệu quả là cần thiết để ngăn ngừa sự tha hóa, lạm quyền, vốn là nguyên nhân làm suy yếu pháp luật và xói mòn niềm tin xã hội.

Tham nhũng là một trong những nguy cơ lớn nhất dẫn đến sự tha hóa quyền lực, làm suy yếu toàn diện việc thi hành pháp luật. Khi quyền lực bị dùng để trục lợi cá nhân, các nguyên tắc bình đẳng, minh bạch và công bằng sẽ bị phá vỡ, làm sụp đổ niềm tin của người dân vào hệ thống pháp lý. Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 đã mở rộng phạm vi điều chỉnh sang khu vực tư nhân, yêu cầu công khai, minh bạch và tăng cường trách nhiệm giải trình. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để ngăn chặn quyền lực bị sử dụng sai mục đích. Thực tế cho thấy nhiều vụ án tham nhũng lớn đã gây thiệt hại nặng nề, làm biến dạng quy trình pháp lý. Do đó phòng, chống tham nhũng không chỉ là biện pháp răn đe mà còn là hàng rào bảo vệ sự liêm chính của hệ thống pháp luật.

Nếu tham nhũng là hành vi cố ý trục lợi thì lãng phí là hệ quả của sự yếu kém trong quản trị và thiếu trách nhiệm giải trình. Vì vậy, kiểm soát và phòng ngừa lãng phí trong thi hành pháp luật không chỉ là giải pháp hành chính mà còn là yêu cầu chính trị - pháp lý để đảm bảo tính hiệu quả, liêm chính và tiết kiệm trong quản trị nhà nước.

Kiểm soát quyền lực, phòng chống tham nhũng và lãng phí là một hệ thống kiểm soát thống nhất, có tính ràng buộc lẫn nhau. Kiểm soát quyền lực là tiền đề để ngăn ngừa lạm dụng, còn phòng, chống tham nhũng và lãng phí là nội dung cốt lõi để bảo vệ tính liêm chính và hiệu quả của hệ thống pháp luật.

Phát triển nền tảng pháp lý số thống nhất

Trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang tác động sâu rộng đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, việc ứng dụng công nghệ số vào thi hành pháp luật không còn là lựa chọn, mà là yêu cầu bắt buộc nếu muốn nâng cao hiệu lực, hiệu quả và tính minh bạch trong thực thi pháp luật.

Một điển hình là hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính cấp quốc gia (cổng dịch vụ công quốc gia) bước đầu đã mang lại sự minh bạch và tiết kiệm thời gian, chi phí cho người dân. Tuy nhiên, hệ thống này vẫn chưa được tích hợp sâu với các cơ sở dữ liệu chuyên ngành và chưa phát huy hết tiềm năng giám sát hành vi công vụ. Giải pháp ở đây là phát triển một nền tảng pháp lý số thống nhất, tích hợp toàn bộ quy trình xây dựng - áp dụng - giám sát - xử lý vi phạm pháp luật, được vận hành trên hạ tầng số và có sự tham gia tương tác của người dân.

ThS TRƯƠNG THỊ TÚ MỸ, ĐH Kinh tế - Luật, ĐH Quốc gia TP.HCM

Nguồn PLO: https://plo.vn/hien-thuc-hoa-nghi-quyet-66-thiet-lap-cac-co-che-bao-ve-su-liem-chinh-trong-thi-hanh-phap-luat-post865490.html