Hành lang pháp lý cho sự trở lại của điện hạt nhân Việt Nam
Theo các chuyên gia, việc Quốc hội thông qua Luật Năng lượng nguyên tử (sửa đổi) cùng với Nghị quyết 70-NQ/TW là bước chuẩn bị toàn diện về pháp lý, chính sách và tổ chức thực hiện, đặt nền móng cho sự trở lại của điện hạt nhân Việt Nam sau hơn một thập kỷ gián đoạn.
Việt Nam tiến tới làm chủ công nghệ hạt nhân, bảo đảm an ninh năng lượng
Ông Nguyễn Tuấn Khải, Cục trưởng Cục An toàn bức xạ và Hạt nhân (Bộ Khoa học và Công nghệ) cho biết, sau hơn 15 năm thi hành, Luật Năng lượng nguyên tử (NLNT) đã trở thành nền tảng pháp lý vững chắc, tạo điều kiện để các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài, tổ chức quốc tế tiến hành các hoạt động trong lĩnh vực NLNT tại Việt Nam. Luật đã góp phần quan trọng trong việc đẩy mạnh ứng dụng NLNT, tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức của các ngành, các cấp và người dân về ứng dụng NLNT vì mục đích hòa bình trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Tuy nhiên, bối cảnh mới đặt ra yêu cầu cấp thiết phải cập nhật, hoàn thiện để phù hợp với xu hướng phát triển KH&CN, bảo đảm an ninh năng lượng và đáp ứng các cam kết quốc tế về phát triển, ứng dụng NLNT vì mục đích hòa bình đang được đánh giá là giải pháp quan trọng.
Theo ông Nguyễn Tuấn Khải, Luật NLNT (sửa đổi) có ý nghĩa đặc biệt khi đã thể chế hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, cùng Nghị quyết số 189/2025/NQ-QH15 của Quốc hội về cơ chế, chính sách phát triển điện hạt nhân. “Luật mới đã mở đường để Việt Nam chủ động bước vào giai đoạn chuẩn bị cho vận hành nhà máy điện hạt nhân trong vòng 5 năm tới, đồng thời đẩy mạnh ứng dụng NLNT phục vụ phát triển kinh tế - xã hội vì mục đích hòa bình”, ông Nguyễn Tuấn Khải nhấn mạnh.
Luật NLNT (sửa đổi) được Quốc hội thông qua đã thiết lập một hành lang pháp lý đầy đủ về phát triển, ứng dụng NLNT, bảo đảm an toàn bức xạ, an toàn hạt nhân và an ninh hạt nhân, phù hợp với thông lệ quốc tế, đặc biệt là các khuyến nghị của Cơ quan NLNT quốc tế (IAEA).
Luật NLNT gồm 12 chương, 73 điều (giảm 20 điều tương ứng với hơn 20% số điều so với Luật năm 2008), với nội dung tập trung vào bốn nhóm chính sách gồm: Thúc đẩy phát triển và xã hội hóa ứng dụng NLNT; bảo đảm an toàn bức xạ, an toàn và an ninh hạt nhân, phân cấp trong công tác quản lý nhà nước; tạo thuận lợi cho hoạt động thanh sát hạt nhân...
Luật NLNT (sửa đổi) xác lập rõ quy trình quản lý nhà máy điện hạt nhân từ phê duyệt chủ trương, xác định địa điểm, xây dựng, vận hành thử, vận hành và chấm dứt hoạt động nhà máy điện hạt nhân; bảo đảm an toàn bức xạ và an toàn hạt nhân, an ninh hạt nhân, đồng thời nâng cao năng lực cho cơ quan quản lý an toàn hạt nhân quốc gia; tạo cơ sở pháp lý cho việc áp dụng các tiêu chuẩn, quy chuẩn của đối tác nước ngoài và IAEA; có các chính sách đột phá về đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là lực lượng triển khai các dự án nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và 2 trong tương lai.
Trước thực tế nhu cầu năng lượng ngày càng tăng cao, trong khi năng lượng hóa thạch đang dần cạn kiệt, điện hạt nhân được xem là lời giải chiến lược cho bài toán an ninh năng lượng và giảm phát thải carbon. Theo Cục trưởng Nguyễn Tuấn Khải, Luật NLNT (sửa đổi) xác định điện hạt nhân là lĩnh vực trọng tâm, vừa là động lực phát triển, vừa là đối tượng quản lý đặc biệt về an toàn, an ninh. Luật cho phép áp dụng tiêu chuẩn quốc tế và tiêu chuẩn của nước cung cấp công nghệ, đồng thời quy định cụ thể các khoản chi cho thẩm định an toàn, thẩm định công nghệ và đào tạo nhân lực, tạo cơ sở pháp lý cho việc triển khai dự án điện hạt nhân đầu tiên.
Sau hơn một thập kỷ tạm dừng, điện hạt nhân đã quay trở lại với công nghệ thế hệ III+ có độ an toàn cao, được nhiều quốc gia ứng dụng thành công. “Đây là thời điểm chín muồi để Việt Nam tái khởi động chương trình điện hạt nhân với nền tảng pháp lý và công nghệ mới”, ông Khải nhận định.
Đáng chú ý, chính sách khuyến khích chuyển giao, tăng cường năng lực chế tạo và nội địa hóa trang thiết bị cho thấy tầm nhìn chiến lược cùng với chính sách bảo đảm ngân sách cho nghiên cứu KH&CN, ưu tiên đầu tư cho nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, phát triển cơ sở hạ tầng khoa học và đào tạo nhân lực trong lĩnh vực NLNT là sự thể chế hóa trực tiếp Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển KHCN và đổi mới sáng tạo.
Đặc biệt, chính sách phát triển đồng bộ cơ sở hạ tầng văn hóa, giáo dục, y tế, phúc lợi tại địa phương có cơ sở hạt nhân, tạo sự đồng thuận xã hội, củng cố niềm tin và bảo đảm phát triển bền vững ngành NLNT.
Có thể khẳng định, việc sửa đổi Luật NLNT không chỉ đơn thuần là hoàn thiện kỹ thuật lập pháp, mà là bước ngoặt thể chế quan trọng. Đây là sự cụ thể hóa các chủ trương lớn của Đảng, thể hiện vai trò dẫn dắt của Nhà nước, khơi thông nguồn lực và xác lập nền tảng phát triển thực chất, bền vững cho ngành NLNT. Về lâu dài, đây chính là nền tảng để Việt Nam làm chủ công nghệ hạt nhân, bảo đảm an ninh năng lượng, phát triển công nghiệp công nghệ cao và khẳng định vị thế quốc gia trong tiến trình hội nhập quốc tế.
Nghị quyết 70-NQ/TW - cú hích “mở đường” cho điện hạt nhân
Nếu như Nghị quyết 55-NQ/TW (2020) mới dừng ở việc định hướng phát triển năng lượng tái tạo thì Nghị quyết số 70-NQ/TW ngày 20/8/2025 của Bộ Chính trị về bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia đã chính thức đưa điện hạt nhân trở lại chương trình nghị sự quốc gia.
Theo Tiến sĩ Ngô Đức Lâm, nguyên Phó Viện trưởng Viện Năng lượng (Bộ Công Thương), Nghị quyết 70 là “nghị quyết mở đường cho điện hạt nhân”, xác định rõ từ nay đến năm 2030, Việt Nam phải sớm triển khai điện hạt nhân, với mục tiêu tối thiểu 6.000MW, coi đây là nguồn điện nền quan trọng để vận hành ổn định hệ thống điện quốc gia.

Xã Phước Dinh, huyện Thuận Nam, nơi dự kiến xây dựng Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1. (Nguồn: Báo ND)
Nghị quyết yêu cầu khẩn trương triển khai các dự án điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và 2, lựa chọn công nghệ tiên tiến, đối tác phù hợp, hướng tới vận hành trong giai đoạn 2030 - 2035. Tiến sĩ Nguyễn Quốc Việt, nguyên Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) nhận định: “Nghị quyết 70 đã chỉ ra rõ cơ chế đặc thù và các định hướng nguồn lực để hiện thực hóa lộ trình phát triển điện hạt nhân, kể cả ở quy mô lớn và quy mô nhỏ”.
Theo các chuyên gia, để đạt mục tiêu đưa điện hạt nhân vào vận hành thương mại vào giai đoạn 2030 - 2031, Việt Nam cần các cơ chế đặc thù và chính sách đồng bộ đi kèm với Luật NLNT (sửa đổi).
Tiến sĩ Tô Văn Trường, chuyên gia về tài nguyên và môi trường cho rằng, Việt Nam nên kết hợp vốn vay ưu đãi từ quốc gia xuất khẩu công nghệ với cơ chế bảo lãnh của Chính phủ, giống như thông lệ quốc tế đối với các nước mới triển khai điện hạt nhân. Đồng thời, cần thành lập quỹ phát triển điện hạt nhân quốc gia, huy động vốn từ ngân sách, ODA và doanh nghiệp năng lượng.
Một cơ chế bảo lãnh tín dụng và bảo hiểm rủi ro công nghệ cũng được đề xuất nhằm giảm thiểu rủi ro tài chính. Ngoài ra, hợp đồng mua bán điện dài hạn có bảo đảm của Nhà nước sẽ tạo dòng tiền ổn định cho nhà đầu tư.
Theo các chuyên gia, việc thông qua Luật NLNT (sửa đổi) cùng với Nghị quyết 70-NQ/TW là bước chuẩn bị toàn diện về pháp lý, chính sách và tổ chức thực hiện, đặt nền móng cho sự trở lại của điện hạt nhân Việt Nam sau hơn một thập kỷ gián đoạn.
Điện hạt nhân không chỉ là giải pháp cung cấp nguồn điện ổn định, giảm phát thải khí nhà kính mà còn là biểu tượng của năng lực khoa học - công nghệ, năng lực quản trị và vị thế quốc gia trong kỷ nguyên năng lượng sạch.
Trong bối cảnh Việt Nam cam kết phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, sự kiện Quốc hội thông qua Luật NLNT (sửa đổi) được ví như “cú hích thể chế” cho chương trình năng lượng hạt nhân hòa bình, đưa Việt Nam tiến gần hơn tới mục tiêu bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, phát triển bền vững và hội nhập sâu rộng vào xu thế công nghệ toàn cầu.

Ông Nguyễn Tuấn Khải.
Ứng dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình
Ông Nguyễn Tuấn Khải, Cục trưởng Cục An toàn bức xạ và Hạt nhân (Bộ Khoa học và Công nghệ) nhận định, không chỉ phục vụ cho sản xuất điện, Luật Năng lượng nguyên tử (sửa đổi) còn mở rộng phạm vi ứng dụng trong y tế, nông nghiệp, công nghiệp, môi trường - những lĩnh vực đang có nhu cầu lớn về công nghệ bức xạ và đồng vị phóng xạ. Luật quy định rõ chính sách xã hội hóa, phân loại mức độ rủi ro của tác động bức xạ để khuyến khích khu vực tư nhân tham gia nghiên cứu, phát triển công nghệ. Nhà nước có chương trình đào tạo, bồi dưỡng và trọng dụng nhân lực năng lượng hạt nhân, từng bước tiến tới làm chủ công nghệ. Cùng với đó, việc xây dựng ngành công nghiệp hạt nhân nội địa - từ lò phản ứng nghiên cứu, thiết bị đo lường, quan trắc phóng xạ đến chế tạo trang thiết bị - được xác định là trụ cột trong giai đoạn tới. Đây là bước đi quan trọng nhằm tạo nền tảng công nghiệp, bảo đảm tự chủ trong quản lý và vận hành các cơ sở hạt nhân.
Luật cũng dành riêng một chương về thanh sát hạt nhân, thể hiện vai trò phối hợp kiểm soát với Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA), bảo đảm mọi hoạt động hạt nhân ở Việt Nam phục vụ mục đích hòa bình và tuân thủ nghiêm các cam kết quốc tế.