'Giữ lửa' nghề truyền thống
Ở nhiều làng nghề truyền thống hôm nay, tiếng đục, tiếng búa... đang thưa dần. Nhưng vẫn có những người thợ lặng lẽ, kiên trì bám nghề, giữ nghề và truyền lại cho lớp trẻ. Từ làng trống Đọi Tam (phường Tiên Sơn) đến làng nghề nón lá Đào Khê Thượng (xã Nghĩa Hưng), câu chuyện giữ nghề vừa là sinh kế, vừa là cách người dân gìn giữ nếp làng, ký ức và bản sắc quê hương.

Nghệ nhân Phạm Chí Khang đang hoàn thiện những khâu cuối cùng của chiếc trống.
Giữ nghề từ tình yêu quê hương
Làng trống Đọi Tam trải qua hơn một nghìn năm, hôm nay vẫn giữ được không gian làng nghề thủ công truyền thống, nơi mỗi nhịp búa, tiếng đục đều gợi nhắc về ký ức nghề của bao thế hệ.
Trong số những người dành trọn đời mình cho nghề ở làng trống Đọi Tam, nghệ nhân làng nghề Việt Nam Phạm Chí Khang là gương mặt tiêu biểu. Ở tuổi 72, ông đã có gần 60 năm theo nghề, am hiểu trọn vẹn các công đoạn, từ chọn gỗ, bào da đến bưng trống, thẩm âm. Ông cho biết, để làm ra một chiếc trống đạt chuẩn, người thợ phải làm chủ nhiều khâu đòi hỏi độ chính xác cao và tai nghe tinh tế, trong đó bưng trống được xem là khó nhất. Nghề làm trống ngoài sức khỏe còn cần sự nhạy cảm nghề nghiệp và hiểu biết về giá trị văn hóa truyền thống.
Cũng theo nghệ nhân Phạm Chí Khang, từ lâu, trống Đọi Tam đã vang danh khắp cả nước bởi kỹ nghệ làm trống tinh xảo và âm sắc đặc trưng khó trộn lẫn. Nghề làm trống nơi đây cũng từng trải qua một vài giai đoạn trầm lắng do nhu cầu thị trường thu hẹp. Khi ấy, người dân trong làng chuyển sang sản xuất bồn tắm, thùng đựng rượu, chậu ngâm chân để “lấy ngắn nuôi dài”, duy trì việc làm và giữ lực lượng lao động cho nghề làm trống. Trải qua giai đoạn khó khăn, nghề trống Đọi Tam dần phục hồi bởi đội thợ nghề vẫn bền bỉ giữ nghề.
Theo quy ước truyền đời của làng nghề, kỹ thuật làm trống chỉ truyền cho con trai trong gia đình, nhằm giữ bí quyết nghề. Sự khắt khe ấy, qua thời gian, đã góp phần bảo toàn giá trị kỹ nghệ của trống Đọi Tam. Với nghệ nhân Phạm Chí Khang, giữ nghề trước hết phải bắt đầu từ tình yêu nghề. Ông thẳng thắn nhìn nhận: Nghề làm trống cho thu nhập không cao, trong khi nhiều khu công nghiệp, doanh nghiệp mở ra đã thu hút không ít lao động trẻ. Vì vậy, để người trẻ ở lại với nghề, cần khơi dậy niềm tự hào về lịch sử hơn 1.000 năm của làng trống, để họ hiểu rằng “ruộng bề bề không bằng nghề trong tay”.
Nghệ nhân Phạm Chí Khang đã dành nhiều tâm huyết cho việc truyền nghề. Ông đã trực tiếp truyền dạy cho khoảng 30-40 thanh niên trong làng... Cùng với đó, trong thời gian giữ cương vị Chủ tịch Hiệp hội sản xuất và kinh doanh trống Đọi Tam, ông đã cùng các nghệ nhân cao tuổi tổ chức nhiều lớp truyền dạy ngắn hạn, phân công từng nghệ nhân giỏi ở mỗi công đoạn phụ trách truyền dạy kỹ thuật cho lớp trẻ. Thanh niên nào có nhu cầu mở xưởng đều được Hiệp hội đề xuất với chính quyền hỗ trợ tiếp cận nguồn vốn ưu đãi, tranh thủ các chương trình khuyến công để đầu tư máy móc, nhà xưởng. Từ đó, lớp thợ kế cận dần hình thành, tạo nền tảng để nghề tiếp tục vận hành trong bối cảnh mới.
Hiện gia đình nghệ nhân Phạm Chí Khang có hai xưởng sản xuất, 2 người con trai và 1 cháu nội đều theo ông nối nghiệp nghề làm trống. Mỗi năm, nghề trống có hai vụ chính, từ tháng Chạp đến hết mùa lễ hội Xuân và từ tháng 6 đến tháng 8, gắn với mùa tựu trường, Tết Trung thu. Vào thời vụ, hai xưởng của gia đình ông tạo việc làm thường xuyên cho 10-12 lao động địa phương, với thu nhập khoảng 300-350 nghìn đồng/người/ngày. Trung bình mỗi xưởng sản xuất từ vài chục đến hàng trăm quả trống mỗi tháng, phục vụ đa dạng nhu cầu từ trống lễ hội, đình chùa, trống chèo, trống trường đến trống Trung thu.
Hiện làng trống Đọi Tam có hơn 500 người làm trống, trong đó có 5 người được phong nghệ nhân và 32 thợ giỏi cấp tỉnh, tạo thành một cộng đồng nghề bền chặt, hỗ trợ nhau giữ nghề. Thành công đó, có sự đóng góp không nhỏ của nghệ nhân Phạm Chí Khang. Trống Đọi Tam không chỉ thành công ở trong nước mà từng bước xuất khẩu sang Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc.
Khi nghề gắn với nếp làng
Làng làm nón lá Đào Khê Thượng xã Nghĩa Châu (huyện Nghĩa Hưng cũ), nay là xã Nghĩa Hưng xuất hiện ở Đào Khê Thượng từ những năm 1940, trải qua gần một thế kỷ vẫn được các thế hệ người dân gìn giữ và tiếp nối. Trong số những người gắn bó lâu năm với nghề có anh Nguyễn Văn Mạnh, xóm 14. Ở tuổi 51, anh Mạnh đã có gần 40 năm gắn bó với nghề làm nón. Gia đình anh 6 đời theo nghề. Vào trước những năm 1940, gia đình anh từng có người đi học nghề ở Hà Đông rồi về truyền dạy cho người dân quanh vùng. Ai có nhu cầu học nghề, anh đều sẵn sàng chỉ dẫn, từ thao tác cơ bản đến những kinh nghiệm giúp sản phẩm bền, đẹp hơn. Đến nay, anh đã hướng dẫn, chỉ dạy nghề cho hơn 50 người dân quanh vùng.

Anh Nguyễn Văn Mạnh chỉnh sửa những chi tiết của chiếc nón lá.
Theo anh Mạnh, nghề làm nón có ưu thế tận dụng được thời gian nhàn rỗi. Người dân có thể tranh thủ lúc nông nhàn hoặc sau giờ làm ca tại công ty. Vì thế, dù có giai đoạn số người làm nón ít đi, nhưng nghề nón ở Đào Khê Thượng chưa bao giờ bị mai một. Trẻ nhỏ từ tuổi tiểu học đã biết phụ giúp bố mẹ viền nón, khâu lá. Việc truyền nghề diễn ra tự nhiên qua sinh hoạt thường ngày trong gia đình.
Hiện cả ba người trong gia đình anh Mạnh đều làm nón. Ngoài ra, mỗi ngày anh còn thu gom khoảng 300- 400 chiếc nón của người làm nghề trong làng để tiêu thụ đi các tỉnh phía Bắc và Tây Nguyên. Nhờ đó, tạo việc làm cho khoảng 100 lao động địa phương với thu nhập ổn định, bình quân 6-7 triệu đồng/người/tháng, giúp người dân yên tâm bám nghề.
Anh Mạnh cho biết, để làm ra một chiếc nón phải trải qua nhiều công đoạn, từ xử lý lá, là phẳng, lên vành, khâu nón đến viền hoàn thiện. Mỗi mũi kim, đường chỉ đều đòi hỏi sự tỉ mỉ, kiên nhẫn. Chính sự chăm chút ấy tạo nên nét thanh thoát, mỏng nhẹ của nón lá Đào Khê, khiến sản phẩm được thị trường ưa chuộng. Từ vật dụng che mưa nắng, nón lá nơi đây còn là món quà quà lưu niệm ưa thích của khách du lịch, đạo cụ trong biểu diễn nghệ thuật, góp phần tôn vinh vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt.
Ngày nay, đến Đào Khê Thượng nói riêng hay xã Nghĩa Hưng nói chung, vẫn thấy hình ảnh người dân quây quần làm nón trong sân nhà, ngoài hiên, quanh ngõ xóm. Có khoảng 90% số hộ trong thôn Đào Khê Thượng tham gia làm nón. Nghề thủ công ở đây góp phần mang lại thu nhập ổn định và giữ cho làng quê một nhịp sống độc đáo, gắn bó, quần tụ. “Với người dân quê tôi, làm nón vừa là kế sinh nhai, vừa là cách giữ truyền thống của ông cha”, anh Mạnh chia sẻ.
Trong bối cảnh kinh tế thị trường, các làng nghề thủ công truyền thống đang đối diện nhiều thách thức. Nhưng chính sự gắn bó, trách nhiệm và tình yêu nghề của những nghệ nhân, thợ nghề như ông Phạm Chí Khang, anh Nguyễn Văn Mạnh và bao nghệ nhân, thợ lành nghề đã giúp ngọn lửa nghề tiếp tục được duy trì. Nhờ sự bền bỉ ấy, nghề truyền thống vẫn được nối tiếp qua nhiều thế hệ, không bị mai một trong đời sống hôm nay.
Nguồn Ninh Bình: https://baoninhbinh.org.vn/giu-lua-nghe-truyen-thong-251226110331681.html











