Giảng viên được quản lý doanh nghiệp do ĐH thành lập mang lại nhiều lợi ích
Việc cho phép giảng viên đại học công lập tham gia quản lý doanh nghiệp sẽ thúc đẩy nghiên cứu, đổi mới sáng tạo và tăng cường gắn kết với doanh nghiệp.
Dự thảo Luật Nhà giáo mới nhất bổ sung quy định liên quan đến quyền nhà giáo. Trong đó, Dự thảo đề xuất nhà giáo được nghiên cứu khoa học và chuyển giao sản phẩm nghiên cứu khoa học theo quy định của pháp luật về nghiên cứu khoa học và sở hữu trí tuệ.
Đáng chú ý, nhà giáo được nghiên cứu khoa học và chuyển giao sản phẩm nghiên cứu khoa học theo quy định của pháp luật về nghiên cứu khoa học và sở hữu trí tuệ; Được tham gia quản lý, điều hành doanh nghiệp do cơ sở giáo dục đại học thành lập hoạt động trong lĩnh vực phát triển khoa học, ứng dụng và chuyển giao công nghệ.
Bổ sung quyền cho nhà giáo sẽ đem lại nhiều lợi ích
Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Huỳnh Đăng Chính - Phó Giám đốc Đại học Bách khoa Hà Nội chia sẻ: “Hiện nay Việt Nam có khoảng 250 cơ sở giáo dục đại học, 75% trong đó là các cơ sở công lập. Hầu hết các nhà khoa học ở cơ sở giáo dục đại học công lập là viên chức nhà nước.
Đa số các viên chức này đều là nhà khoa học, nghiên cứu khoa học công nghệ và đào tạo trí thức. Có thể nói, các nhà khoa học chính là những người hiểu và nắm rõ nhất về quá trình hình thành, đặc tính của các kết quả nghiên cứu, đổi mới sáng tạo của mình.
Việc bổ sung quyền cho nhà giáo tham gia quản lý, điều hành doanh nghiệp sẽ mang lại nhiều thuận lợi cho cơ sở giáo dục đại học, đặc biệt trong việc phát triển các hoạt động nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ”.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Huỳnh Đăng Chính - Phó Giám đốc Đại học Bách khoa Hà Nội. Ảnh: Website Trường
Phó Giám đốc Đại học Bách khoa Hà Nội khẳng định, nếu nhà giáo có thể trực tiếp tham gia vào quá trình thương mại hóa kết quả nghiên cứu, sẽ giúp rút ngắn khoảng cách giữa nghiên cứu trong phòng thí nghiệm với thực tiễn.
Các kết quả nghiên cứu của nhà giáo cũng sẽ được đặt trong một hệ sinh thái gắn kết giữa đào tạo, nghiên cứu khoa học, sản xuất và thị trường. Từ đó, nâng cao được giá trị của các kết quả nghiên cứu.
Thầy Chính nhấn mạnh, sinh viên là lực lượng chính tham gia vào quá trình hình thành kết quả nghiên cứu của nhà giáo tại các trường đại học.
Vì vậy, khi nhà giáo tham gia vào điều hành, quản lý doanh nghiệp sẽ tạo điều kiện cho người học có cơ hội sớm tiếp cận với công nghệ mới. Đồng thời tham gia vào quá trình hình thành và phát triển sản phẩm, phục vụ nhu cầu của thị trường, xã hội. Từ đó, người học sẽ nâng cao các kỹ năng cũng như kinh nghiệm làm việc sau khi tốt nghiệp.
Chia sẻ về vấn đề trên, Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Vũ Hoàng Linh - Hiệu trưởng Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội nhận định: “Các trường đại học hiện nay có thể thành lập các đơn vị trực thuộc, đặc biệt là mô hình doanh nghiệp spin-off, nhằm phát triển và chuyển giao các sản phẩm từ nghiên cứu khoa học của giảng viên.
Điều này không chỉ giúp tạo nguồn thu cho nhà trường và giảng viên, mà còn thể hiện rõ tác động, tầm ảnh hưởng của thành quả nghiên cứu đối với xã hội”.

Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Vũ Hoàng Linh - Hiệu trưởng Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội. .Ảnh: Mộc Trà
Thầy Linh cho biết, trước đây, do những ràng buộc từ quy định pháp luật, giảng viên có nguyện vọng thành lập doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, ngay cả khi muốn triển khai các công ty khoa học công nghệ trong trường.
Tuy nhiên, với những đề xuất điều chỉnh chính sách mới, hy vọng rằng rào cản này sẽ được tháo gỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho các trường và giảng viên tham gia vào hoạt động kinh tế tri thức.
“Việc cho phép giảng viên trong trường tham gia quản lý và điều hành doanh nghiệp sẽ có tác động tích cực đến mối liên kết giữa trường đại học và cộng đồng doanh nghiệp.
Điều này không chỉ thúc đẩy hoạt động nghiên cứu ứng dụng mà còn đóng góp trực tiếp vào sự phát triển của nền kinh tế tri thức, giúp nâng cao vị thế của các trường đại học trong hệ sinh thái đổi mới sáng tạo và phát triển kinh tế của đất nước”, vị giáo sư khẳng định.
Đồng tình với quan điểm trên, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đinh Văn Toàn – Phó Giám đốc, Chủ tịch Hội đồng Kiểm định chất lượng giáo dục, Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Đại học Quốc gia Hà Nội chia sẻ: “Nghiên cứu khoa học và chuyển giao sản phẩm nghiên cứu khoa học là một trong 3 sứ mệnh quan trọng của Trường Đại học. Đây cũng là các nhiệm vụ của các giảng viên đại học.
Trong giáo dục đại học, giảng viên không nghiên cứu khoa học thì không hoàn thành tốt nhiệm vụ giảng dạy vì bản chất dạy và học trong đại học phải gắn với nghiên cứu.
Tuy nhiên, do nhiều ràng buộc về thể chế và cơ chế trong quản lý nghiên cứu khoa học, giảng viên các trường đại học công lập chủ yếu chuyển giao kết quả nghiên cứu cho đơn vị đặt hàng, thay vì trực tiếp chuyển giao để thương mại hóa. Công nghệ hay giải pháp được khai thác tiếp theo ra sao, chính các giảng viên – những người tạo ra nó cũng không thể nắm rõ”.
Thầy Toàn nhận định, Dự thảo Luật Nhà giáo khẳng định rõ quyền đối với nhà giáo, trong đó có giảng viên đại học là một bước tiến để thúc đẩy nhanh nhận thức về vấn đề này trong xã hội là rất đáng khích lệ.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đinh Văn Toàn bày tỏ, hy vọng rằng sau khi các thể chế được tháo gỡ, cơ chế pháp lý thuận lợi, thông thoáng hơn về khai thác tài sản trí tuệ và thúc đẩy thương mại hóa được thiết lập, các cơ sở giáo dục đại học công lập sẽ có nhiều lợi thế hơn trong nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ.
Cần rà soát và gỡ bỏ nhiều rào cản
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Huỳnh Đăng Chính phân tích: “Theo điểm b, khoản 2, Điều 17 Luật Doanh nghiệp số 59/2020/QH14 và điểm b, d khoản 2, Điều 20 Luật Phòng chống tham nhũng quy định: cán bộ, công chức, viên chức không được góp tài sản nghiên cứu, tài sản trí tuệ tham gia góp vốn vào doanh nghiệp.
Quy định này sẽ làm giảm sự gắn kết giữa cơ sở giáo dục đại học và doanh nghiệp, cũng như hạn chế động lực nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo của các nhà khoa học”.
Theo thầy Chính, một số quy định pháp lý hiện tại đang là rào cản, là một trong các nguyên nhân khiến số lượng và quy mô doanh nghiệp được thành lập trong đại học công lập hạn chế như hiện tại.
Ngoài ra, việc nhà giáo không được tham gia quản lý doanh nghiệp khiến sự gắn kết giữa trường đại học và doanh nghiệp bị ảnh hưởng, làm chậm quá trình chuyển giao công nghệ và ứng dụng nghiên cứu vào thực tiễn.
Vị phó giáo sư khẳng định, chính vì vậy, nếu gắn liền hoạt động nghiên cứu khoa học của nhà giáo với doanh nghiệp sẽ vừa tạo điều kiện có thêm nguồn lực tài chính, vừa giúp thuận lợi cho hoạt động nghiên cứu khoa học với tính ứng dụng thực tiễn cao.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Huỳnh Đăng Chính khẳng định, để phát triển doanh nghiệp trong trường đại học, đặc biệt là đại học công lập, cần có chiến lược dài hạn và đồng bộ.
Trước hết, cần hoàn thiện khung pháp lý rõ ràng, minh bạch để điều chỉnh hoạt động doanh nghiệp trong trường. Nhà nước nên có chính sách hỗ trợ các trường về vốn, cơ sở vật chất và đào tạo. Đồng thời, các trường phải hình thành và phát triển đơn vị chuyên trách hỗ trợ, có chính sách thu hút đội ngũ chuyên nghiệp. Quan trọng nhất, cần thúc đẩy nghiên cứu khoa học, lấy nhà giáo và nhà khoa học làm trung tâm để nâng cao chất lượng và ứng dụng thực tiễn.
“Khi nhà giáo được quyền quản lý doanh nghiệp do trường thành lập, nhà trường sẽ triển khai các biện pháp hỗ trợ, kiểm tra và đảm bảo hoạt động của nhà giáo và doanh nghiệp minh bạch, hiệu quả.
Trường sẽ cung cấp thông tin, tư vấn pháp lý, kinh doanh, tạo điều kiện tiếp cận nguồn vốn, cơ sở vật chất và kết nối với nhà đầu tư. Đồng thời, xây dựng hệ thống báo cáo, đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp; Tổ chức kiểm tra định kỳ để đảm bảo tuân thủ pháp luật và quy định của trường”, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Huỳnh Đăng Chính chia sẻ.
Ngoài ra, thầy Chính cho hay, việc sử dụng thời gian, nguồn lực của nhà giáo cũng nên được kiểm soát để không ảnh hưởng đến hoạt động chuyên môn. Bên cạnh đó, quyền lợi của nhà giáo cần được bảo vệ, tránh tình trạng chảy máu chất xám, cũng như đảm bảo doanh nghiệp không ảnh hưởng đến uy tín và hoạt động của trường đại học.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đinh Văn Toàn phân tích thêm, Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ cho phép các trường đại học có thể được giao quyền sở hữu trí tuệ đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí (là kết quả của nhiệm vụ khoa học và công nghệ) sử dụng ngân sách nhà nước bởi cơ quan đại diện chủ sở hữu Nhà nước.
Tuy nhiên, trong thực tiễn, chưa có nhiều đăng ký xác lập quyền và chưa có nhiều chuyển giao để thương mại hóa. Nguyên nhân chủ yếu là do có quá nhiều quy định về cơ chế, thủ tục ngay từ khâu đăng ký. Cơ chế định giá và sử dụng tài sản trí tuệ có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước chưa rõ ràng và khó thực hiện.
Muốn thúc đẩy hoạt động của các doanh nghiệp trong trường đại học, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đinh Văn Toàn cho rằng, cần gỡ vướng nhiều hơn.

“Trong dự thảo Luật Nhà giáo cũng như các quy định hiện nay vẫn coi nhà giáo là viên chức. Đặc biệt, trong thực tiễn, phần lớn các nhà khoa học là giảng viên có năng lực nghiên cứu đều giữ các vị trí lãnh đạo, quản lý hoặc có trách nhiệm dẫn dắt về chuyên môn.
Bên cạnh đó, theo Luật Phòng chống tham nhũng và Luật Viên chức, các giảng viên không được thành lập, tham gia quản lý, điều hành doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, hợp tác xã… Nếu đề xuất trong dự luật, quan niệm các giảng viên được tham gia trong các doanh nghiệp do trường đại học thành lập sẽ không mang lại nhiều sự chuyển động tích cực trong phát triển kinh doanh và thương mại hóa.
Bởi lẽ, các trường đại học công lập vẫn duy trì mô hình doanh nghiệp nhà nước. Đây là một mô hình hoạt động chưa phát huy hiệu quả do cơ chế vận hành và các vướng mắc về pháp lý vừa đề cập. Thực tiễn gần 30 năm hoạt động của một số doanh nghiệp do một số trường đại học công lập thành lập thuộc trường đã chứng minh điều này.
Có thể thấy, mặc dù thể chế đang được hoàn thiện thông qua hệ thống pháp luật, tuy nhiên hiện vẫn còn chồng chéo. Vì vậy, tạo hành lang pháp lý để hình thành một hệ sinh thái đổi mới sáng tạo trở thành yêu cầu cấp bách. Các quy định pháp lý cần đồng bộ để sớm hoàn thiện thị trường khoa học công nghệ, tháo gỡ các nút thắt trong thực thi quyền sở hữu trí tuệ, thúc đẩy chuyển giao và thương mại hóa các kết quả nghiên cứu khoa học”, thầy Toàn chia sẻ.
Vị phó giáo sư đề xuất thêm, ngoài việc sớm rà soát loại bỏ sự chồng chéo, ràng buộc lẫn nhau để hoàn thiện thể chế, hoàn thiện các thị trường về công nghệ, vốn, lao động và hình thành hệ sinh thái thúc đẩy khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, nhiều cơ chế trong thực tiễn cũng cần được tháo gỡ từ các Bộ, Ngành và địa phương.
“Hiện nay, Nhà nước đầu tư cho nghiên cứu nhưng hầu như không thu lợi từ chuyển giao và thương mại hóa kịp thời, gây lãng phí. Trong khi đó, ở Mỹ có Đạo luật Bayh-Dole, ở Vương Quốc Anh cũng thực hiện chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ từ cơ quan nhà nước cho các trường đại học từ đầu thập niên 80 của yhế kỷ trước. Điều này giúp họ chuyển giao công nghệ giữa trường đại học và doanh nghiệp rất hiệu quả.
Do đó, nên cho phép các cơ sở giáo dục đại học công lập được quyền khai thác tài sản trí tuệ và kết quả nghiên cứu khoa học, kể cả các nghiên cứu do ngân sách Nhà nước tài trợ để mang lại lợi ích kinh tế - xã hội cho Nhà nước, nhà trường, nhà giáo và cộng đồng.
Ngoài ra, cần cho phép giảng viên đại học được thành lập và quản lý các doanh nghiệp (Startups hoặc Spin-off) để hiện thực hóa các ý tưởng sáng tạo hoặc công nghệ do mình phát triển; các bộ, ngành và địa phương cần rà soát các cơ chế hiện nay đang là rào cản trong thực thi quyền sở hữu, khai thác tài sản trí tuệ, hợp tác công - tư, đặc biệt là định giá và góp vốn, tài sản, thương hiệu từ các cơ sở giáo dục đại học để tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp", Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đinh Văn Toàn cho hay.