Đề xuất chi gần 125.500 tỷ đồng để nâng cao sức khỏe nhân dân
Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan nêu rõ, tổng kinh phí thực hiện chương trình trong toàn giai đoạn 2026-2035 là 125.478 tỷ đồng. Đối tượng thụ hưởng của chương trình là toàn bộ người dân Việt Nam, trong đó ưu tiên một số đối tượng.
Sáng 25-11, tiếp tục kỳ họp thứ 10 của Quốc hội, Quốc hội đã nghe các tờ trình và báo cáo thẩm tra về chủ trương đầu tư chương trình mục tiêu quốc gia hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2026-2035; chủ trương đầu tư chương trình mục tiêu quốc gia về chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển giai đoạn 2026-2035.

Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan trình bày tờ trình, sáng 25-11. Ảnh: QUANG PHÚC
Đến năm 2035, 100% cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông đạt chuẩn về cơ sở vật chất
Theo tờ trình về chủ trương đầu tư chương trình mục tiêu quốc gia hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2026-2035, Chính phủ đề xuất Quốc hội phương án chi 580.133 tỷ đồng từ vốn ngân sách Trung ương, địa phương và các nguồn vốn hợp pháp khác để đầu tư hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục trong 10 năm tới. Chương trình dự kiến thực hiện trong 10 năm (từ năm 2026 đến năm 2035) và chia làm 2 giai đoạn.

Bộ trưởng Bộ GD-ĐT Nguyễn Kim Sơn trình bày tờ trình, sáng 25-11. Ảnh: QUANG PHÚC
Giai đoạn 2026-2030 sẽ tập trung giải quyết các vấn đề hạn chế, thách thức đặt ra trong thời gian qua; thực hiện và hoàn thành toàn bộ hoặc hoàn thành một phần một số mục tiêu chủ yếu cần hỗ trợ từ ngân sách Nhà nước. Giai đoạn 2031-2035 sẽ tiếp tục xây dựng và triển khai các nhiệm vụ, mục tiêu đặt ra đến 2035.
Chính phủ đề ra mục tiêu tổng quát là chuẩn hóa, hiện đại hóa toàn diện hệ thống giáo dục - đào tạo, tạo bước chuyển căn bản, mạnh mẽ về chất lượng giáo dục đào tạo; mở rộng cơ hội học tập cho mọi người dân, bảo đảm công bằng trong tiếp cận giáo dục, quyền được học tập suốt đời.
Theo tờ trình, đến năm 2030, Chính phủ phấn đấu đạt 4 nhóm mục tiêu cụ thể, gồm: từng bước chuẩn hóa hệ thống giáo dục mầm non, phổ thông; từng bước hình thành 6 trung tâm quốc gia và 12 trung tâm vùng đào tạo nhân lực có kỹ năng nghề cao; từng bước đầu tư chuẩn hóa, hiện đại hóa hạ tầng kỹ thuật, mở rộng không gian phát triển cho các cơ sở giáo dục đại học; nâng cao chất lượng, năng lực của đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục và người học.
Chính phủ cũng đặt mục tiêu phấn đấu đầu tư để hiện đại hóa cho 8 cơ sở giáo dục đại học công lập trọng điểm lọt nhóm 200 đại học hàng đầu châu Á và tối thiểu có 1 trường đại học công lập lọt nhóm 100 đại học hàng đầu thế giới ở một số lĩnh vực trọng điểm.
Một mục tiêu quan trọng khác là từng bước đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong hệ thống giáo dục quốc dân; thí điểm mô hình trường học phát triển năng lực sáng tạo, tư duy phản biện và hội nhập quốc tế.
Đến năm 2035, Chính phủ phấn đấu đầu tư xây dựng 100% các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông đạt chuẩn về cơ sở vật chất; 100% cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông có đủ thiết bị dạy học để triển khai thực hiện đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học.
Đề xuất chi gần 125.500 tỷ đồng để "nâng cao sức khỏe nhân dân"
Tờ trình của Chính phủ về chủ trương đầu tư chương trình mục tiêu quốc gia về chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển giai đoạn 2026-2035 do Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan trình bày trước Quốc hội nêu rõ, tổng kinh phí thực hiện chương trình trong toàn giai đoạn này là 125.478 tỷ đồng.
Đối tượng thụ hưởng của chương trình là toàn bộ người dân Việt Nam, trong đó ưu tiên người sống ở khu vực khó khăn, miền núi, biên giới, biển đảo; người yếu thế; bà mẹ, trẻ em; thanh thiếu niên; các cặp vợ chồng, cá nhân trong độ tuổi sinh đẻ; người có công với cách mạng; người cao tuổi; người di cư, lao động ở các khu công nghiệp.

Quang cảnh hội trường Diên Hồng sáng 25-11. Ảnh: QUANG PHÚC
Trong đó, giai đoạn 2026-2030 là 88.635 tỷ đồng (ngân sách trung ương 68.000 tỷ đồng, ngân sách địa phương 20.041 tỷ đồng). Tổng vốn giai đoạn 2031-2035 dự kiến 36.843 tỷ đồng. Thời gian thực hiện chương trình 10 năm, từ 2026 đến hết năm 2035, chia thành 2 giai đoạn: 2026-2030 và 2031-2035.
Mục tiêu tổng quát của chương trình là nâng cao sức khỏe thể chất, tinh thần, tầm vóc, tuổi thọ và chất lượng cuộc sống của nhân dân; bảo đảm mọi người dân đều được quản lý, chăm sóc sức khỏe ban đầu chất lượng, người dân chủ động tự chăm sóc và nâng cao sức khỏe; hạn chế bệnh tật, được phòng bệnh từ sớm, từ xa, ngay tại cơ sở.
Chương trình cũng nhằm giải quyết các vấn đề dân số ưu tiên, chủ động thích ứng với già hóa, nâng cao chất lượng dân số; tăng cường chăm sóc cho các nhóm yếu thế góp phần xây dựng một nước Việt Nam khỏe mạnh, thịnh vượng trong kỷ nguyên mới.
10 mục tiêu cụ thể cũng được Chính phủ nêu rõ trong chương trình, trong đó có tỷ lệ người dân được lập sổ sức khỏe điện tử và quản lý sức khỏe theo vòng đời đến năm 2030 đạt 100% và duy trì đến năm 2035; tỷ lệ trạm y tế xã, phường, đặc khu trên toàn quốc triển khai thực hiện dự phòng, quản lý, điều trị một số bệnh không lây nhiễm đầy đủ theo quy trình được hướng dẫn đến năm 2030 đạt 100% và duy trì đến năm 2035.
Chính phủ cũng đặt mục tiêu số lượng người yếu thế, người dễ bị tổn thương được tiếp cận, sử dụng dịch vụ tại các cơ sở chăm sóc xã hội đến năm 2030 tăng thêm 70% so với năm 2025 và đến năm 2035 tăng thêm 90% so với năm 2030.

Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội Nguyễn Đắc Vinh trình bày báo cáo thẩm tra, sáng 25-11. Ảnh: QUANG PHÚC
Nêu quan điểm thẩm tra, Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Xã hội Nguyễn Đắc Vinh cho biết, Ủy ban tán thành đề xuất của Chính phủ và cho rằng trong điều kiện còn nhiều khó khăn, việc Chính phủ đề xuất bố trí nguồn lực để thực hiện chương trình thể hiện quyết tâm cao trong thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng. Tuy nhiên, đề nghị Chính phủ xác định rõ nguồn vốn, bảo đảm bố trí đủ nguồn vốn tối thiểu; nghiên cứu tăng cường xã hội hóa trong thực hiện chương trình; tiếp tục nghiên cứu, cân đối bố trí thêm nguồn lực khi có điều kiện.
Đáng lưu ý, với phần vốn ngân sách địa phương chi cho chương trình, đại diện cơ quan cho rằng đối với các tỉnh khó khăn, đặc biệt là tỉnh miền núi, tỷ lệ vốn đối ứng của địa phương có thể bố trí rất thấp (dưới 10%).
Do đó, cần đánh giá sát hơn khả năng huy động nguồn vốn ngân sách địa phương và tính toán đề xuất mức bố trí vốn ngân sách địa phương phù hợp hơn với tình hình thực tiễn; rà soát, lựa chọn những nội dung cốt lõi, quan trọng, tránh dàn trải, lãng phí nguồn lực.













