Đào tạo nghề cho lao động dân tộc thiểu số để giảm nghèo bền vững

Dự án 5.3 thuộc Chương trình MTQG đã hỗ trợ hàng trăm nghìn lượt lao động vùng dân tộc thiểu số học nghề, tạo sinh kế để thoát nghèo bền vững.

Đào tạo nghề cho lao động dân tộc thiểu số được bàn thảo sâu rộng tại hội nghị tổng kết các nội dung về GD&ĐT trong CTMTQG về phát triển KT-XH vùng đồng bào DTTS&MN giai đoạn 2021-2025.

Đào tạo nghề cho lao động dân tộc thiểu số được bàn thảo sâu rộng tại hội nghị tổng kết các nội dung về GD&ĐT trong CTMTQG về phát triển KT-XH vùng đồng bào DTTS&MN giai đoạn 2021-2025.

Tạo chuyển biến trong đào tạo nghề

Trong Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030, giai đoạn I: từ năm 2021 đến năm 2025; định hướng giai đoạn 2026-2030, bên cạnh các dự án tập trung cho giáo dục phổ thông và đại học, Dự án 5.3 có một vị trí đặc biệt đó là hỗ trợ giáo dục nghề nghiệp và việc làm cho lao động vùng đồng bào DTTS. Đây là lực lượng trực tiếp tham gia sản xuất, quyết định hiệu quả giảm nghèo bền vững, đồng thời cũng là nhóm dễ bị tổn thương nhất khi điều kiện việc làm, kỹ năng còn hạn chế.

Theo báo cáo, tổng kế hoạch vốn sự nghiệp cho Dự án 5.3 giai đoạn 2021–2025 là gần 12.621 tỷ đồng. Trong đó, đến ngày 31/3/2025, đã giao kế hoạch 7.319,883 tỷ đồng (đạt 58% kế hoạch cả giai đoạn). Tuy nhiên, theo báo cáo của Bộ GD&ĐT, tỷ lệ giải ngân dự kiến đến hết năm 2025 chưa thể hoàn thành mục tiêu đề ra.

Nguyên nhân chủ yếu là công tác lập kế hoạch, giao vốn và triển khai tại nhiều địa phương còn lúng túng. Một số tỉnh chưa xây dựng được kế hoạch đào tạo nghề gắn với nhu cầu thị trường, dẫn đến chậm tiến độ tổ chức lớp học và tuyển sinh. Bên cạnh đó, một số địa phương có tâm lý “trông chờ” vào hướng dẫn từ Trung ương, thiếu sự chủ động trong huy động nguồn lực tại chỗ.

Tuy vậy, những kết quả ban đầu cũng rất đáng ghi nhận. Tính đến thời điểm 30/6/2025 đã triển khai được 2.354 mô hình đào tạo nghề; gần 240 nghìn lượt người lao động vùng dân tộc đã được tham gia các khóa đào tạo nghề ngắn hạn, cùng với đó là hơn 140.000 lượt người được tư vấn, giới thiệu việc làm. Các khóa đào tạo tập trung vào các lĩnh vực như nông nghiệp, chăn nuôi, chế biến nông lâm sản, thủ công mỹ nghệ và dịch vụ du lịch cộng đồng. Nhiều hộ gia đình sau khi tham gia các lớp tập huấn đã áp dụng thành công mô hình sản xuất mới, tăng thu nhập, giảm phụ thuộc vào khai thác tự nhiên.

Ngoài ra, một số mô hình liên kết giữa cơ sở đào tạo nghề với doanh nghiệp tại chỗ đã được hình thành. Ví dụ, đào tạo nghề gắn với hợp tác xã nông nghiệp, cơ sở chế biến nông sản, hay các đơn vị làm dịch vụ du lịch bản địa. Đây là những hạt nhân quan trọng để nhân rộng trong thời gian tới.

 Giờ thực hành của sinh viên Trường Cao đẳng Kỹ thuật - Công nghệ Vĩnh Phúc.

Giờ thực hành của sinh viên Trường Cao đẳng Kỹ thuật - Công nghệ Vĩnh Phúc.

Gắn đào tạo với thị trường

Bước vào giai đoạn 2026–2030, mục tiêu của Dự án 5.3 không chỉ dừng ở con số lao động được đào tạo, mà quan trọng hơn là hiệu quả thụ hưởng, tức khả năng tìm được việc làm ổn định, tăng thu nhập, cải thiện chất lượng sống sau đào tạo. Để đạt mục tiêu này, báo cáo Tổng kết 5 năm thực hiện các nội dung về giáo dục và đào tạo thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030, giai đoạn I: từ năm 2021 đến năm 2025; định hướng giai đoạn 2026-2030 nhấn mạnh một số định hướng quan trọng.

Trước hết, cần gắn chặt đào tạo nghề với nhu cầu thị trường lao động. Thay vì mở lớp theo chỉ tiêu hành chính, các địa phương cần khảo sát sát thực tế nhu cầu của doanh nghiệp, hợp tác xã, thị trường trong và ngoài tỉnh. Mỗi khóa đào tạo phải có địa chỉ việc làm cụ thể, tránh tình trạng “học xong không có việc”.

Thứ hai, phải đa dạng hóa mô hình đào tạo. Bên cạnh các lớp ngắn hạn, cần phát triển hình thức đào tạo tại chỗ, linh hoạt theo mùa vụ, kết hợp trực tiếp với sản xuất của người dân. Những mô hình “cầm tay chỉ việc”, “đào tạo gắn với mô hình thực tế” cần được nhân rộng, vì phù hợp với đặc điểm của nhiều nhóm lao động dân tộc.

Thứ ba, tăng cường chuyển đổi số trong giáo dục nghề nghiệp. Ứng dụng công nghệ để xây dựng kho học liệu điện tử, các bài giảng trực tuyến, video hướng dẫn nghề sẽ giúp người học dễ tiếp cận, giảm chi phí, đồng thời tạo điều kiện cho người lao động có thể “học lại” khi cần.

Thứ tư, cần chú trọng đến hỗ trợ sau đào tạo. Người lao động cần được tiếp cận vốn vay ưu đãi, hỗ trợ khởi nghiệp, kết nối với doanh nghiệp. Chính sách cần gắn chặt với phong trào giảm nghèo bền vững, tránh tình trạng “học nghề xong nhưng vẫn quay về sản xuất cũ”.

Cuối cùng, việc nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý dạy nghề là điều kiện tiên quyết. Cần đào tạo đội ngũ giảng viên am hiểu phong tục, ngôn ngữ địa phương, có kỹ năng truyền đạt trực quan, gắn lý thuyết với thực tiễn. Đây chính là cầu nối quan trọng để chính sách đi vào cuộc sống.

Trong tầm nhìn xa hơn, Dự án 5.3 sẽ góp phần hình thành một lực lượng lao động dân tộc thiểu số có tay nghề, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa nông thôn, phát triển du lịch cộng đồng, đồng thời bảo tồn và phát huy nghề truyền thống. Thành công của dự án cũng sẽ tạo hiệu ứng lan tỏa, khẳng định vai trò của giáo dục nghề nghiệp trong giảm nghèo đa chiều, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho vùng đồng bào.

Nguyễn Xuân Thương

Nguồn GD&TĐ: https://giaoducthoidai.vn/dao-tao-nghe-cho-lao-dong-dan-toc-thieu-so-de-giam-ngheo-ben-vung-post758017.html