Đảm bảo nhu cầu trong nước và xuất khẩu hơn 8 triệu tấn gạo năm 2024

Năm 2024, Việt Nam có thể đáp ứng được nguồn cung để xuất khẩu gạo tương đương năm 2023 (khoảng 8 triệu tấn) nhưng vẫn bảo đảm an ninh lương thực trong nước.

Giá lúa gạo hôm nay 25/5 biến động nhẹ

Giá lúa gạo hôm nay ngày 25/5 tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long tiếp đà giảm với gạo nguyên liệu và thành phẩm, trong khi đó giá lúa đi ngang.

Theo số liệu trên báo Công Thương, với mặt hàng lúa, theo cập nhật từ Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh An Giang, lúa OM5451 (tươi) giá 7.500 - 8.000 đồng/kg; Lúa OM18 (tươi) giá 8.000 - 8.300 đồng/kg; Lúa Đài thơm 8 (tươi) giá 8.000 - 8.300 đồng/kg; lúa OM380 (tươi) giá 8.000 đồng/kg; lúa IR50404 (tươi) giá ở mức 7.500 - 8.000 đồng/kg…

Nàng Hoa 9 ở mức 7.600 - 7.700 đồng/kg; Lúa Nhật giá 7.800 - 8.000 đồng/kg; giá Nếp Long An dao động quanh mức 9.800 - 10.500 đồng/kg; Nàng Nhen khô 20.000 đồng/kg.

Trên thị trường lúa hôm nay nhu cầu mua lúa Hè thu tại Cần Thơ, Kiên Giang, Hậu Giang… lai rai; tại Đồng Tháp, Long An nhu cầu mua chậm do thu hồi thấp, giá giảm nhẹ. Đối với lúa khô, nhu cầu mua khá, nguồn cung không nhiều, giá biến động nhẹ.

Với mặt hàng gạo, giá tiếp tục điều chỉnh giảm so với hôm qua. Cụ thể, gạo nguyên liệu IR 504 Hè thu giảm 150 đồng, xuống còn 11.200- 11.400 đồng/kg; gạo thành phẩm IR 504 giảm 200 đồng, xuống mức 13.500-13.550 đồng/kg.

Với phụ phẩm hôm nay biến động trái chiều. Theo đó, giá tấm OM 5451 duy trì ở mức 10.300-10.400 đồng/kg; giá cám khô bật tăng 150 đồng/kg, lên mức 7.200-7.300 đồng/kg.

Ghi nhận tại các địa phương hôm nay, gạo mới chất lượng kém và về ít, các bến vắng ghe. Trong đó, tại Sa Đéc (Đồng Tháp), vắng gạo, kho mua ít, giá các loại giảm tiếp; tại An Cư (Tiền Giang) gạo có lai rai, giá giảm, đa số gạo chung chung, ít gạo đẹp…

Tại các chợ lẻ giá ổn định sau phiên điều chỉnh tăng hôm qua. Cụ thể, Jasmine 18.000 - 20.000 đồng/kg; gạo Nàng Nhen 30.000 đồng/kg; gạo Nàng hoa 20.000 đồng/kg; gạo tẻ thường dao động quanh mốc 15.000 - 16.000 đồng/kg; thơm thái hạt dài 19.000 - 20.000 đồng/kg; gạo Hương lài 20.000 đồng/kg; gạo thơm Đài Loan (Trung Quốc) 21.000 đồng/kg; gạo trắng thông dụng 18.000 đồng/kg; gạo Sóc thường 18.000-19.000 đồng/kg; gạo Sóc Thái giá 18.500 đồng/kg; gạo Nhật giá 22.000 đồng/kg.

Trên thị trường xuất khẩu, giá gạo xuất khẩu hôm nay quay đầu giảm nhẹ. Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam, giá gạo xuất khẩu 5% tấm có phiên điều chỉnh giảm 3 USD/tấn, xuống mức 585 USD/tấn; gạo 25% tấm giảm 4 USD/tấn, xuống mức 558 USD/tấn; gạo 100% tấm duy trì ổn định ở mức 485 USD/tấn.

Sản lượng gạo hàng hóa xuất khẩu năm 2024 của Việt Nam chủ yếu vẫn tập trung ở các tỉnh vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Ảnh: TTXVN.

Sản lượng gạo hàng hóa xuất khẩu năm 2024 của Việt Nam chủ yếu vẫn tập trung ở các tỉnh vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Ảnh: TTXVN.

Đảm bảo nhu cầu tiêu thụ trong nước và xuất khẩu hơn 8 triệu tấn

Trong 4 tháng đầu năm 2024, xuất khẩu gạo đã đạt 3,23 triệu tấn, tăng 11,7% với 2,08 tỷ USD, tăng 36,5% so với cùng kỳ năm ngoái. Kết quả này nhờ giá xuất khẩu gạo bình quân từ đầu năm đạt 644 USD/tấn, tăng 22,2%. Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam, giá gạo xuất khẩu ngày 1/5, loại gạo 5% đang ở mức 580 USD/tấn, tương đương với loại gạo cùng loại của Thái Lan. Loại gạo 25% tấm ở mức 554 USD/tấn, cao hơn so với gạo cùng loại của Thái Lan (530 USD/tấn).

Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, dự kiến sản xuất lúa cả nước năm nay sẽ đạt 43 triệu tấn, với sản lượng này sẽ đảm bảo nhu cầu tiêu thụ trong nước và xuất khẩu hơn 8 triệu tấn.

Nhằm đảm bảo xuất khẩu hơn 8 triệu tấn gạo, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sẽ theo dõi sát tình hình thời tiết khí tượng, thủy văn để chỉ đạo thời vụ, cơ cấu cây trồng phù hợp. Ngành chỉ đạo chăm sóc và thu hoạch lúa vụ Hè thu tại các tỉnh phía Nam; các tỉnh phía Bắc tập trung chăm sóc lúa Đông xuân, đặc biệt lưu ý đảm bảo nguồn nước cho sản xuất lúa tại các tỉnh Bắc Trung bộ.

Chia sẻ xoay quanh vấn đề này với VOV, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Phùng Đức Tiến cho rằng, biến đổi khí hậu với thời tiết không thuận lợi, nguồn cung còn hạn chế trong khi nhiều quốc gia tăng nhập khẩu gạo để dự trữ.

Bên cạnh đó, việc một số quốc gia tiếp tục chính sách cấm, hạn chế xuất khẩu cùng với nhiều điểm nóng xung đột trên thế giới vẫn tiếp diễn, khiến thị trường gạo trên thế giới tiếp tục sôi động trong thời gian tới, đây là cơ hội cho các nước xuất khẩu gạo, trong đó có Việt Nam.

“Những tháng đầu năm chủ yếu là thúc đẩy sản xuất, nhưng chúng ta vẫn giữ đà tăng trưởng đó là tín hiệu vui để đảm bảo được tốc độ tăng trưởng của ngành theo mục tiêu và chỉ đạo của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ. Về sản lượng lúa, đã đạt 3,2 triệu tấn, tuy có giảm nhưng năm nay sẽ duy trì 7,1 triệu ha đất lúa, với sản lượng 43 triệu tấn, gần bằng mục tiêu năm 2023, cố gắng duy trì sản lượng xuất khẩu 8 triệu tấn gạo” - Thứ trưởng Phùng Đức Tiến nói.

Năm 2024, Việt Nam đặt mục tiêu kim ngạch xuất khẩu gạo đạt hơn 5 tỷ USD. Ngoài nhiệm vụ giữ vững diện tích gieo trồng lúa là 7,1 triệu ha, sản lượng lúa 43 triệu tấn, bảo đảm tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, thì việc tập trung khai thác các thị trường mới cho xuất khẩu gạo là yêu cầu cần thiết, nhất là trong điều kiện cạnh tranh giữa các quốc gia xuất khẩu ngày càng gay gắt hơn.

Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, dự kiến tổng khối lượng gạo hàng hóa cho xuất khẩu tại các tỉnh vùng Đồng bằng sông Cửu Long năm 2024 ước đạt khoảng 7,6 triệu tấn, trong đó, nhóm gạo chất lượng cao khoảng 3,2 triệu tấn; nhóm gạo thơm, đặc sản 2,5 triệu tấn; nhóm gạo chất lượng trung bình 1,15 triệu tấn; nhóm nếp 0,75 triệu tấn, theo báo Nhân Dân.

Trúc Chi (t/h)

Nguồn Người Đưa Tin: https://nguoiduatin.vn/dam-bao-nhu-cau-trong-nuoc-va-xuat-khau-hon-8-trieu-tan-gao-nam-2024-a665275.html