Chuyển từ 'quy trình mở ngành' sang 'quy trình đăng ký và cấp phép' là phù hợp

Mở ngành đào tạo đại học không thể chỉ dựa trên mong muốn chủ quan hay phong trào, mà phải là quá trình tính toán, có giám sát, và đồng bộ giữa cung và cầu.

Những năm gần đây, nhiều cơ sở giáo dục đại học hướng tới đào tạo đa ngành, chạy theo nhu cầu của thị trường.

Việc trường đại học mở thêm các ngành mới sẽ tạo ra nhiều cơ hội cho thí sinh lựa chọn ngành nghề theo học. Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực, việc mở ngành tràn lan, thiếu kiểm soát, ồ ạt chạy theo thị hiếu có thể dẫn nhiều hệ lụy, thậm chí có trường không tuyển sinh được phải đóng ngành.

Đào tạo không gắn với nhu cầu thực tiễn, người chịu thiệt là sinh viên

Chia sẻ với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Đại biểu Quốc hội Trịnh Thị Tú Anh - Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Lâm Đồng cho hay, việc các trường đại học mở mới hàng nghìn ngành đào tạo trong vài năm qua phản ánh xu hướng mở rộng đào tạo đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường lao động và xã hội. Tuy nhiên, thực trạng này cũng bộc lộ nhiều bất cập.

Một số cơ sở giáo dục đại học chạy theo số lượng, mở ngành không nằm trong danh mục thống kê ngành đào tạo của giáo dục đại học do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định hoặc thiếu cơ sở khoa học rõ ràng. Hệ quả là chất lượng đào tạo không đảm bảo, ảnh hưởng đến người học và thị trường lao động.

Cụ thể, đối với sinh viên, các bạn có nguy cơ theo học các chương trình thiếu tính pháp lý, không được công nhận rộng rãi, làm giảm cơ hội việc làm sau tốt nghiệp. Sinh viên có thể lãng phí thời gian, tiền bạc vì chọn ngành không phù hợp với nhu cầu thực tế.

Đối với thị trường lao động, việc mở ngành tràn lan dẫn đến tình trạng mất cân đối cung - cầu. Một số ngành nghề có số lượng người tốt nghiệp vượt xa nhu cầu, trong khi nhiều lĩnh vực then chốt vẫn thiếu hụt nhân lực chất lượng cao. Sự mất cân đối này làm giảm tính cạnh tranh của lực lượng lao động Việt Nam trên thị trường khu vực và quốc tế.

 Đại biểu Quốc hội Trịnh Thị Tú Anh - Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Lâm Đồng. Ảnh: NVCC

Đại biểu Quốc hội Trịnh Thị Tú Anh - Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Lâm Đồng. Ảnh: NVCC

Cùng bàn về nội dung này, Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Tất Dong - nguyên Phó Chủ tịch Hội Khuyến học Việt Nam đánh giá, việc mở ngành đào tạo ồ ạt như hiện nay đang bộc lộ nhiều bất cập, trong đó nổi bật là tình trạng cơ sở giáo dục đại học mở ngành mới không đúng với năng lực chuyên môn và cơ sở vật chất hoặc mở ngành chỉ để mở rộng phạm vi tuyển sinh, dẫn đến hệ lụy về chất lượng giáo dục và chất lượng đầu ra.

Trước tiên, mở ngành đào tạo mới cần căn cứ vào danh mục thống kê ngành đào tạo của giáo dục đại học do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định, đồng thời phải gắn với nhu cầu thực tiễn của thị trường lao động.

Nếu mở mà ngành không nằm trong danh mục ngành nghề đào tạo chính thức, thực chất các trường đang tạo ra một lực lượng lao động “vô định”. Đó là sự lãng phí lớn về thời gian, chi phí và nguồn lực xã hội.

Khi muốn mở một ngành mới, cơ sở giáo dục không chỉ cần căn cứ vào hiện tại, mà còn phải dự báo về nhu cầu nhân lực của ngành ở thời điểm sinh viên ra trường. Ví dụ, nếu năm 2025 bắt đầu đào tạo thì phải tính đến năm 2029 hoặc 2030, thị trường lao động sẽ có nhu cầu tuyển dụng ngành đó như thế nào, ở đâu và với số lượng ra sao.

Việc mở ngành cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan quản lý và cơ sở giáo dục. Mở ngành đào tạo đại học không thể chỉ dựa trên mong muốn chủ quan hay phong trào, mà phải là quá trình tính toán chiến lược, có kiểm tra, giám sát, và đồng bộ giữa cung và cầu. Đây là yếu tố để bảo đảm hiệu quả đào tạo và tránh lãng phí nguồn lực quốc gia.

 Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Tất Dong - nguyên Phó Chủ tịch Hội Khuyến học Việt Nam. Ảnh: Thùy Linh

Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Tất Dong - nguyên Phó Chủ tịch Hội Khuyến học Việt Nam. Ảnh: Thùy Linh

Trong khi đó, ông Lê Như Tiến - nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng (nay là Ủy ban Văn hóa và Xã hội) của Quốc hội nhận định, hiện nay, không ít trường đại học mở ngành tràn lan, trong đó có những ngành vượt cả năng lực đào tạo thực tế của trường. Việc mở mã ngành đào tạo trong cơ sở giáo dục đại học cần căn cứ vào nhu cầu thực tế của xã hội, không thể làm theo mong muốn riêng của cơ sở giáo dục hay chạy theo phong trào. Ví dụ như công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo (AI), hay vi mạch bán dẫn là những lĩnh vực mà Việt Nam đang thiếu nhân lực chất lượng cao, đó là những ngành nên được ưu tiên mở.

Đào tạo đại học phải nhằm mục tiêu cung ứng nguồn nhân lực phù hợp với thực tiễn thị trường lao động. Xã hội chỉ đón nhận những sinh viên có chuyên môn mà xã hội đang cần. Ngược lại, trường mở ngành đào tạo nhưng thị trường không có nhu cầu sử dụng, người học rất khó để tìm được việc làm sau khi tốt nghiệp.

Khi có ý định mở ngành mới, cơ sở giáo dục phải tiến hành điều tra xã hội học, khảo sát cụ thể thị trường lao động đang cần nguồn nhân lực ở lĩnh vực nào, số lượng bao nhiêu, triển vọng nghề nghiệp ra sao.

Đồng thời, Bộ Giáo dục và Đào tạo với vai trò cơ quan quản lý nhà nước cần có sự kiểm tra, thanh tra chặt chẽ, không để tình trạng các trường mở ngành ồ ạt rồi lại phải đóng vì nhiều lý do. Bên cạnh các văn bản pháp quy hiện hành, cần có những hướng dẫn cụ thể, chế tài rõ ràng, thậm chí cần thay đổi, cải cách trong quản lý để đảm bảo chỉ những đơn vị có đủ năng lực, đào tạo đúng ngành, đúng nhu cầu xã hội mới được mở ngành.

Nếu sửa đổi “quy trình mở ngành”, trường đại học có thể tập trung phát huy thế mạnh

Trước thực trạng một số trường đại học mở ngành mới ồ ạt, ban soạn thảo Luật Giáo dục đại học sửa đổi dự kiến chuyển "quy trình mở ngành" thành "quy trình đăng ký và cấp phép hoạt động theo lĩnh vực, trình độ và địa điểm đào tạo". Như vậy, việc mở ngành học mới dự kiến phải được cơ quan quản lý nhà nước cấp phép, thay vì tự chủ mở ngành như hiện nay.

Bày tỏ quan điểm về nội dung sửa đổi này, ông Lê Như Tiến cho rằng đây là một bước tiến phù hợp với xu thế đổi mới trong quản lý nhà nước, vừa tạo điều kiện cho các cơ sở giáo dục đại học phát huy thế mạnh, vừa nâng cao trách nhiệm kiểm tra, giám sát của cơ quan quản lý.

Điều này khuyến khích các trường chủ động nâng cao chất lượng, xây dựng năng lực thực sự trước khi đăng ký. Quan trọng hơn, việc thanh tra, kiểm tra và hệ thống văn bản quy phạm pháp luật sẽ trở thành “chìa khóa” đảm bảo sự minh bạch và hiệu quả trong quản lý.

Bên cạnh đó, việc chuyển đổi quy trình mở ngành mới cũng giúp cơ sở giáo dục đại học tập trung phát triển những ngành thế mạnh. Khi đó, các trường phải xây dựng những tiêu chuẩn rõ ràng về đội ngũ giảng viên, chương trình đào tạo, cơ sở vật chất... để đáp ứng các yêu cầu của cơ quan quản lý nhà nước và của thị trường lao động.

Tuy nhiên, để mô hình này phát huy hiệu quả, cơ quan quản lý cần xây dựng một hành lang pháp lý đầy đủ, rõ ràng và có cơ chế giám sát minh bạch. Đồng thời, cần nâng cao năng lực cho lực lượng thanh tra, kiểm tra chuyên ngành, bảo đảm việc kiểm tra thực sự có trọng tâm, trọng điểm, không hình thức.

 Ông Lê Như Tiến - nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng (nay là Ủy ban Văn hóa và Xã hội) của Quốc hội. Ảnh: Thành An

Ông Lê Như Tiến - nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng (nay là Ủy ban Văn hóa và Xã hội) của Quốc hội. Ảnh: Thành An

Trong khi đó, Đại biểu Quốc hội Trịnh Thị Tú Anh nhận định, đề xuất chuyển từ “quy trình mở ngành” sang “quy trình đăng ký và cấp phép hoạt động theo lĩnh vực, trình độ và địa điểm đào tạo" là bước cải cách trong quản lý giáo dục đại học, phù hợp với xu thế tự chủ và hội nhập quốc tế.

Nếu việc chuyển đổi này được thực hiện sẽ giúp đơn giản hóa thủ tục hành chính, giảm bớt các rào cản về mặt pháp lý, tạo điều kiện để các trường linh hoạt hơn trong việc phát triển chương trình phù hợp với năng lực nội tại và nhu cầu thực tiễn của xã hội.

Không chỉ vậy, việc chuyển đổi sẽ tăng tính tự chủ cho các cơ sở giáo dục, giúp các trường tập trung đầu tư vào những lĩnh vực mũi nhọn. Mặt khác, điều này giúp giảm bớt vấn đề quan liêu trong quy trình mở ngành, khuyến khích đổi mới sáng tạo trong giáo dục. Ngoài ra, việc quy định theo địa điểm đào tạo cũng góp phần tăng hiệu quả quản lý, đảm bảo chất lượng giảng dạy và cơ sở vật chất tại các cơ sở giáo dục khác nhau.

Nếu được triển khai hiệu quả, việc chuyển sang “đăng ký và cấp phép hoạt động theo lĩnh vực, trình độ và địa điểm đào tạo” sẽ tạo điều kiện thuận lợi để cơ sở giáo dục đại học tập trung nâng cao chất lượng đào tạo dựa trên thế mạnh riêng. Các trường có thể linh hoạt xây dựng chương trình đào tạo phù hợp với nhu cầu thị trường lao động và đặc thù vùng miền, thay vì bị ràng buộc bởi danh mục ngành cứng nhắc. Ví dụ, một trường đại học ở khu vực nông thôn có thể phát triển các chương trình đào tạo về nông nghiệp thông minh hoặc công nghệ xanh, đáp ứng trực tiếp yêu cầu của địa phương.

Bên cạnh đó, các trường được phép chủ động tuyển dụng giảng viên có chuyên môn phù hợp với lĩnh vực đã đăng ký, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ giảng dạy. Ngoài ra, việc đầu tư cơ sở vật chất cũng được tối ưu hóa khi cơ sở giáo dục tập trung nguồn lực cho phòng thí nghiệm, trung tâm nghiên cứu hay cơ sở thực hành chuyên sâu, thay vì dàn trải cho nhiều ngành thiếu tính thực tiễn hoặc không phù hợp.

Tuy nhiên, để sự thay đổi này đi vào thực tế và phát huy hiệu quả, cần có cơ chế giám sát chặt chẽ nhằm đảm bảo các cơ sở giáo dục đại học không lạm dụng quyền tự chủ để mở những chương trình đào tạo kém chất lượng, chạy theo số lượng mà bỏ qua yêu cầu về chuyên môn và thực tiễn.

Cùng với đó, cơ quan quản lý cần xây dựng bộ tiêu chí rõ ràng, minh bạch để đánh giá năng lực thực tế của từng trường, từ đó kiểm soát chất lượng đào tạo một cách hiệu quả và công bằng. Đồng thời, cần đi kèm với một hệ thống kiểm định chất lượng độc lập, khách quan và nghiêm ngặt nhằm đảm bảo các trường thực hiện đúng cam kết đã đưa ra trong hồ sơ đăng ký.

Mặt khác, để đào tạo gắn với nhu cầu của thị trường lao động, cơ sở giáo dục đại học và cơ quản quản lý cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp. Trước hết, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần phối hợp với Bộ Nội vụ, các hiệp hội ngành nghề và doanh nghiệp để khảo sát, dự báo nhu cầu nhân lực theo từng lĩnh vực, khu vực và trình độ. Đây là cơ sở quan trọng để định hướng mở ngành và điều chỉnh quy mô đào tạo phù hợp.

Trước khi mở ngành mới, các trường cần tham vấn ý kiến từ chuyên gia, doanh nghiệp và các bên liên quan nhằm đảm bảo chương trình đào tạo sát với thực tế, đáp ứng được yêu cầu công việc.

Đồng thời, cần áp dụng cơ chế kiểm định định kỳ để rà soát chất lượng các chương trình đào tạo, kịp thời điều chỉnh hoặc dừng những chương trình không còn phù hợp với nhu cầu xã hội.

Ngoài ra, việc khuyến khích các trường mở rộng hợp tác quốc tế cũng là hướng đi quan trọng. Thông qua liên kết với trường đại học, tổ chức quốc tế, cơ sở đào tạo trong nước có thể tiếp cận mô hình giáo dục tiên tiến, nhất là trong những ngành công nghệ cao, đáp ứng xu thế toàn cầu hóa.

Đại biểu Trịnh Thị Tú Anh nhấn mạnh, để đảm bảo chất lượng đào tạo và đáp ứng nhu cầu thực tiễn, việc thay đổi quy trình mở ngành mới cần dựa trên những tiêu chí rõ ràng và cơ chế giám sát nghiêm ngặt.

Về chất lượng, cơ sở giáo dục đại học phải chứng minh được năng lực đội ngũ giảng viên về trình độ chuyên môn, kinh nghiệm thực tiễn, cùng với hệ thống cơ sở vật chất phù hợp với ngành đào tạo. Cùng với đó, chương trình đào tạo cần được xây dựng bài bản, có tham chiếu với các chuẩn quốc tế hoặc sát với nhu cầu thực tế của thị trường.

Về tính thực tiễn, trường phải cung cấp bằng chứng về nhu cầu nhân lực của thị trường lao động, như báo cáo khảo sát thị trường, cam kết tuyển dụng từ doanh nghiệp. Chương trình đào tạo phải đảm bảo mang tính ứng dụng cao, chú trọng thực hành và phát triển kỹ năng nghề nghiệp.

Về đổi mới, cơ quan quản lý cần tạo điều kiện để các trường thử nghiệm ngành học mới trong lĩnh vực công nghệ cao như trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, năng lượng tái tạo… Tuy nhiên, quá trình này phải đi kèm với lộ trình đánh giá rõ ràng, đồng thời cắt giảm thủ tục hành chính không cần thiết nhưng vẫn giữ vững tiêu chuẩn chất lượng tối thiểu.

Về giám sát, cần thành lập hội đồng kiểm định độc lập để thẩm định hồ sơ mở ngành và theo dõi việc triển khai sau khi cấp phép. Các trường vi phạm cam kết chất lượng hoặc mở ngành sai quy định phải chịu chế tài nghiêm khắc.

Như vậy, việc cải cách quy trình mở ngành cần đi kèm với cơ chế kiểm soát hiệu quả và định hướng chiến lược rõ ràng, nhằm đảm bảo chất lượng giáo dục, phục vụ phát triển nguồn nhân lực và khuyến khích đổi mới sáng tạo. Cơ sở giáo dục đại học cần được trao quyền tự chủ, nhưng phải chịu trách nhiệm giải trình minh bạch trước xã hội và người học.

Hồng Mai

Nguồn Giáo Dục VN: https://giaoduc.net.vn/chuyen-tu-quy-trinh-mo-nganh-sang-quy-trinh-dang-ky-va-cap-phep-la-phu-hop-post251915.gd