Các vấn đề cần giải quyết để xây dựng khung pháp lý cho AI tại Việt Nam
Theo chuyên gia, cần lộ trình để ứng dụng khung pháp lý thực nghiệm và tiêu chuẩn dữ liệu; đồng thời thiết lập cộng đồng đa phương trong nghiên cứu, đào tạo về lĩnh vực AI…
Tại phiên thảo luận Hội thảo khoa học “AI và Pháp luật: Kinh nghiệm quốc tế và một số gợi mở cho Việt Nam” do Trường ĐH Kinh tế - Luật (ĐH Quốc gia TP.HCM) phối hợp cùng báo Pháp Luật TP.HCM tổ chức đã nhận được sự quan tâm, trao đổi sôi nổi của các chuyên gia, nhà khoa học về khung pháp lý cho trí tuệ nhân tạo (AI) tại Việt Nam.

Các chuyên gia, nhà khoa học thảo luận tại hội thảo. Ảnh: THUẬN VĂN
Đã đến thời điểm cần có luật về trí tuệ nhân tạo chưa?
Liên quan đến vấn đề “Việt Nam hiện nay có cần một đạo luật quy định về trí tuệ nhân tạo (dự thảo Luật Trí tuệ nhân tạo đang được lấy ý kiến) hay không?”, nhiều chuyên gia đồng tình về việc cần thiết xây dựng luật song cũng có chuyên gia cũng băn khoăn.
Theo PGS-TS Ngô Hữu Phước (Phó Trưởng khoa phụ trách khoa Luật kinh tế, ĐH Kinh tế - Luật) thì Trung Quốc, Mỹ hay EU có cách tiếp cận và xây dựng khung pháp lý về AI khác nhau, mỗi một cách tiếp cận sẽ có những ưu và nhược điểm đi kèm.
“Tại Việt Nam, thời điểm hiện tại chưa nên ban hành luật riêng về AI bởi lẽ hệ sinh thái AI còn non trẻ, chưa đủ độ chín để luật hóa. Bên cạnh đó, nguồn lực quản lý nhà nước còn hạn chế và khó đảm bảo tính linh hoạt trước thay đổi nhanh của công nghệ” - PGS-TS Ngô Hữu Phước nói.
Sự phát triển của AI là một tiến trình không thể đảo ngược. Một nguyên tắc cốt lõi cần đảm bảo là AI chỉ là công cụ hỗ trợ, còn con người luôn là chủ thể chịu trách nhiệm cuối cùng.
Đồng quan điểm, ông Huỳnh Quốc Anh, Phó Giám đốc Sở Tư pháp TP.HCM, cho biết đơn vị cũng đang tham mưu cho UBND và tham gia góp ý cho dự thảo Luật Trí tuệ nhân tạo. Tuy nhiên, dưới góc độ cá nhân, ông Anh cũng băn khoăn việc thời điểm này xây dựng luật về AI đã đủ độ chín hay chưa khi các quy định về trí tuệ nhân tạo hiện đã có ban đầu tại Luật Công nghiệp công nghệ số năm 2025 (có hiệu lực kể từ ngày 1-1-2026).
“Hiện các quy định về AI chưa có hiệu lực thi hành trên thực tế, lĩnh vực AI còn mới, chưa có nhiều kết quả tổng kết thực tiễn. Do đó, tôi cũng băn khoăn về vấn đề xây dựng luật cho AI” - ông Anh nói.

Lãnh đạo Trường ĐH Kinh tế - Luật, ĐH Quốc gia TP.HCM, báo Pháp Luật TP.HCM cùng các chuyên gia, khách mời chụp ảnh lưu niệm tại hội thảo. Ảnh: THUẬN VĂN
Trong khi đó, theo PGS-TS Lê Minh Khôi, Trưởng phòng Khoa học và Đào tạo, BV ĐH Y Dược TP.HCM, trong y khoa, AI giúp chẩn đoán bệnh; phát triển thuốc mới; cá nhân hóa điều trị, tìm ra các thuật toán phức tạp, tìm ra được những biến số tối ưu cho một liệu pháp. Ngoài ra, AI còn giúp cải thiện công nghệ chỉnh sửa gen. Tuy nhiên, AI trong lĩnh vực y tế cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro.
PGS-TS Lê Minh Khôi đặt vấn đề: Khi bác sĩ sử dụng AI trong nghiệp vụ chuyên môn mà xảy ra sự cố, sai sót thì bác sĩ hay người phát triển AI chịu trách nhiệm? Ví dụ bác sĩ thăm khám và đưa ra y lệnh cho bệnh nhân uống một viên thuốc và viên thuốc này được nhà sản xuất sản xuất theo đúng quy trình, tiêu chuẩn. Nhưng khi cho viên thuốc này 100 người uống thì 99 người bình thường, chỉ có một người gặp sự cố. Vậy trách nhiệm trong trường hợp này thuộc về ai?
“Theo tôi, cần thiết ban hành luật riêng về trí tuệ nhân tạo để quy định trách nhiệm pháp lý giữa các bên, giúp giảm thiểu rủi ro về pháp lý liên quan đến AI” - PGS-TS Lê Minh Khôi đánh giá.
Ba kết quả của hội thảo
Trên thực tế, trí tuệ nhân tạo đi nhanh hơn pháp luật. Hàng loạt câu hỏi lớn đã hiện hữu: Trách nhiệm pháp lý của AI tạo sinh, an ninh dữ liệu, quyền riêng tư, các vấn đề về minh bạch và giải trình.
Trên thế giới đang hình thành những chuẩn mực cho AI. Tại Việt Nam, Luật Công nghiệp công nghệ số được ban hành vào tháng 6-2025 là bước đi nền tảng nhưng rất cần những quy định cụ thể và triển khai hiệu quả.
PGS-TS HOÀNG CÔNG GIA KHÁNH, Hiệu trưởng Trường ĐH Kinh tế - Luật (ĐH Quốc gia TP.HCM)
Hội thảo không chỉ đề cập đến việc sử dụng AI trong ngành luật mà còn tập trung đi sâu vào pháp lý dành cho AI, với mong muốn góp phần xây dựng khung pháp lý cho AI phát triển an toàn, có trách nhiệm, không kiềm hãm sự đổi mới và sáng tạo.
Ba kết quả có được từ hội thảo: Thứ nhất là khuyến nghị chính sách khả thi để quản trị rủi ro và phân định trách nhiệm pháp lý. Thứ hai là đề xuất lộ trình để ứng dụng khung pháp lý thử nghiệm (sandbox) và tiêu chuẩn dữ liệu. Thứ ba là thiết lập cộng đồng đa phương trong nghiên cứu, đào tạo về lĩnh vực AI.
PGS-TS HOÀNG CÔNG GIA KHÁNH, Hiệu trưởng Trường ĐH Kinh tế - Luật (ĐH Quốc gia TP.HCM)
Con người đừng để bị biến thành “trợ lý của AI”
Trao đổi tại hội thảo, luật sư Nguyễn Quốc Cường (Giám đốc Công ty Luật Infinity Việt Nam) cho rằng với AI chúng ta không thể đứng ngoài cuộc, chấp nhận hay không chấp nhận vẫn phải thích nghi với thời đại.
Theo luật sư Cường, sự phát triển của AI đã tạo điều kiện thuận lợi cho các bạn sinh viên so với các thế hệ trước. Đơn cử như trước đây việc tra cứu văn bản hoặc mua một cuốn sách về luật rất khó nhưng hiện nay việc tra cứu các văn bản pháp luật rất nhanh chóng, rất dễ để tìm kiếm.
“Tuy nhiên, vì AI là trợ lý ảo nên hãy xem AI là trợ lý của chúng ta chứ không phải ngược lại. Các bạn sinh viên cũng đừng nên quá phụ thuộc để biến chúng ta là trợ lý của AI” - luật sư Cường lưu ý.
Về vấn nạn gần đây nhiều người có sức ảnh hưởng trên mạng xã hội đã liên tiếp lên tiếng phản ánh việc mình bị sử dụng hình ảnh trái phép, nhất là việc sử dụng AI để cắt ghép. Luật sư Cường cho biết việc này không chỉ ảnh hưởng đến cá nhân người bị sử dụng hình ảnh, mà còn có thể khiến những người xem quảng cáo bị lừa đảo mà không hay biết.
Dưới góc độ pháp lý, việc sử dụng AI để cắt ghép, chỉnh sửa hoặc phát tán hình ảnh của cá nhân khi chưa có sự đồng ý là hành vi xâm phạm quyền nhân thân, được điều chỉnh tại Điều 32 BLDS 2015. Người bị xâm phạm có quyền yêu cầu chấm dứt hành vi vi phạm, gỡ bỏ hình ảnh, cải chính công khai và bồi thường thiệt hại theo Điều 592 BLDS 2015.

Đông đảo sinh viên Trường ĐH Kinh tế - Luật tham dự hội thảo. Ảnh: THUẬN VĂN
Trong trường hợp hành vi sử dụng AI nhằm tạo ra những hình ảnh, nội dung nhằm mục đích vu khống, làm nhục người khác hoặc lừa đảo người tiêu dùng, người thực hiện có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo các quy định tại Điều 155 (tội làm nhục người khác), Điều 156 (tội vu khống) hoặc Điều 174 (tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản) của BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017, năm 2025). Như vậy, không chỉ ảnh hưởng đến uy tín, danh dự của cá nhân, việc sử dụng trái phép hình ảnh bằng AI còn tiềm ẩn nguy cơ lừa đảo, gây thiệt hại xã hội.
Do đó, người sử dụng mạng xã hội cần thận trọng khi đưa những hình ảnh của mình lên mạng xã hội. Trong trường hợp nếu phát hiện hình ảnh của mình bị cắt ghép hoặc bị các cá nhân sử dụng công nghệ AI để tạo ra những hình ảnh giống mình thì cần có biện pháp pháp lý để bảo vệ hình ảnh của mình như thu thập các hình ảnh, tài liệu này và trình báo sự việc với cơ quan công an, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác.•
Ý kiến
PGS-TS LÊ VŨ NAM, Phó Hiệu trưởng Trường ĐH Kinh tế - Luật (ĐH Quốc gia TP.HCM):
Khai thác hiệu quả, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội
Hội thảo đã nêu lên những vấn đề rất nóng hiện nay mà chưa có câu trả lời rõ ràng, thỏa đáng từ các quy định của pháp luật hiện hành. Đó là những vấn đề liên quan đến nhận diện AI, vai trò của AI và việc ứng dụng AI trong kinh tế, trong hoạt động xét xử, trong công tác truyền thông báo chí, trong nghiên cứu khoa học, trong lĩnh vực giáo dục... Đây được xem là những vấn đề rất nóng, đang nhận được sự quan tâm của rất nhiều nhà quản lý, chuyên gia, nhà khoa học và toàn bộ xã hội.
Kết quả hội thảo hôm nay đã gợi mở cho các cơ quan quản lý nhà nước trong việc xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý về AI tại Việt Nam trong bối cảnh đất nước đang tích cực hội nhập với hệ thống pháp luật quốc tế; đặc biệt là trong bối cảnh Việt Nam đã ban hành Nghị quyết 57-NQ/TW ngày 22-12-2024 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Việc xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý về AI sẽ là nhân tố quyết định và là động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển của đất nước trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Có thể khẳng định rằng AI là một thực tế mà chúng ta phải đối diện. AI xuất hiện hoàn toàn theo quy luật phát triển của tự nhiên và của xã hội. Vấn đề đặt ra là làm sao Việt Nam phải xây dựng và phát triển một khung pháp lý điều chỉnh các quan hệ xã hội, bảo đảm cho con người có thể khai thác một cách hiệu quả để sử dụng đúng mục đích thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội; đồng thời ngăn chặn, phòng ngừa những mặt tiêu cực, rủi ro mà AI mang lại.
Kết quả của hội thảo ngày hôm nay sẽ được tổng hợp thành những bản kiến nghị chính sách để gửi lên các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, nghiên cứu.
***
Ông NGUYỄN ĐỨC HIỂN, Phó Tổng Biên tập thường trực báo Pháp Luật TP.HCM:
AI vừa là cơ hội vừa là thách thức
Trong lĩnh vực pháp luật, AI đã và đang tác động sâu rộng đến các hoạt động như quản lý và chính sách; tư pháp; kinh doanh và dịch vụ pháp lý; điều tra hình sự…
Bên cạnh cơ hội, việc tích hợp AI vào lĩnh vực pháp luật cũng đặt ra nhiều thách thức.
Trong lĩnh vực báo chí, AI đem đến thách thức nhiều hơn rủi ro. Tuy nhiên, rủi ro nếu có sẽ đến từ việc chậm cập nhật, không theo kịp và chậm đáp ứng, mất đi các cơ hội.
Ví dụ giữa hai cơ quan báo chí cùng lĩnh vực hay hai đài truyền hình, hai đài phát thanh thì cơ hội sẽ đến với đơn vị nào có khả năng đáp ứng, khả năng chuyển đổi số, khả năng làm chủ công nghệ và nguồn lực tài chính tốt. Và nó sẽ trở thành rủi ro nếu không theo kịp, nếu rơi vào đơn vị yếu hơn.
Việc nhìn nhận các rủi ro hay cơ hội là do năng lực và tầm nhìn của từng cơ quan báo chí, cũng như vậy với việc lập pháp và tuyên truyền pháp luật. Nếu chúng ta tạo ra hành lang pháp lý tốt để vừa đảm bảo ngăn chặn các rủi ro và tạo điều kiện cho sự sáng tạo, chúng ta sẽ thấy nó lợi ích, thú vị, nếu không sẽ nhìn thấy nó bằng sự sợ hãi.
AI có thể xử lý dữ liệu khổng lồ nhưng chỉ con người mới có sự đồng cảm, cân nhắc hoàn cảnh, hiểu được tác động xã hội, văn hóa và chính trị của một quyết định pháp lý. Đây chính là lý do AI phải được nhìn nhận như công cụ hỗ trợ chứ không thể thay thế vai trò trung tâm của con người.
Những phân tích và kiến nghị của chuyên gia tại hội thảo đã góp phần xây dựng khung pháp lý cân bằng giữa đổi mới sáng tạo và bảo vệ quyền lợi công dân, doanh nghiệp, hướng tới một hệ sinh thái AI minh bạch, an toàn và hiệu quả; trở thành nguồn tham khảo quý báu cho Đảng và Nhà nước trong quá trình hoạch định chính sách và xây dựng luật về AI - để Việt Nam không chỉ theo kịp mà còn chủ động tham gia dẫn dắt cuộc chơi công nghệ toàn cầu.
Kết hợp giữa luật khung linh hoạt và trách nhiệm của con người
Có hai câu ngạn ngữ của La-tinh rất hay. Thứ nhất là “Luật không quan tâm tiểu tiết”, tức trên thế giới không có luật nào có thể điều chỉnh hết các quan hệ xã hội có thể phát sinh. Thứ hai là “Luật dừng lại ở những nơi dừng lại của lý lẽ”, tức nếu như trong 100 người sử dụng thuốc, 99 người đều vượt qua, chỉ có một người không vượt qua dù đã được cảnh báo rất nhiều từ nhà sản xuất về các chỉ số an toàn thì dưới góc độ pháp lý, giữa bác sĩ và bệnh nhân ai là người rành về an toàn và cách sử dụng thuốc thì người đó có trách nhiệm liên quan. Vì vậy, bác sĩ không thể vô can được.
TS Cao Vũ Minh phát biểu tại Hội thảo. Ảnh: THUẬN VĂN
Trên thực tế, đã có bác sĩ dù thực hiện các hoạt động rất tỉ mỉ, chỉn chu nhưng khi xảy ra sự cố y khoa thì phán quyết của tòa vẫn buộc bác sĩ phải chịu trách nhiệm. Điều đó chứng tỏ được rằng dưới góc độ pháp lý, dù bác sĩ có dựa vào AI hay không thì bác sĩ vẫn đưa ra quyết định cuối cùng và phải chịu trách nhiệm.
Về vấn đề rủi ro của xe tự hành, tham khảo quy định một số nước, tôi nhận thấy có ba trường hợp: Thứ nhất là xe tự hành với sự cài đặt của chủ sở hữu, nếu gây thiệt hại thì luật quy định chủ sở hữu phải hoàn toàn chịu trách nhiệm. Trường hợp nữa là nếu xe chạy được từ sự can thiệp của một hacker nào đó thì hacker phải chịu trách nhiêm. Cuối cùng, một sản phẩm cho dù đã chuyển giao hay chưa chuyển giao mà không có lập trình, điều khiển, can thiệp từ phía chủ sở hữu hay hacker thì chủ sản xuất là người phải chịu trách nhiệm.
Các quốc gia này cũng đặt ra rất nhiều giới hạn của việc chịu trách nhiệm. Ví dụ loại trách nhiệm chỉ đặt ra trong khoảng thời gian 10 năm, 20 năm liên quan đến hạn bảo hành của chiếc xe. Người ta còn xây dựng Luật Về trách nhiệm sản phẩm hoặc Luật Bảo hiểm về chia sẻ rủi ro từ phía nhà sản xuất, người thực hành và người bán bảo hiểm.
Dưới góc độ pháp luật của Việt Nam, thay vì đánh giá có cần thiết hay không cần thiết ban hành luật về AI, chúng ta có thể hoàn toàn tiếp thu dựa trên cơ sở kinh nghiệm lập pháp của nước ngoài.
Về kỹ thuật làm luật, theo Nghị quyết 66/NQ-TW, những lĩnh vực pháp luật mới và thường xuyên thay đổi thì cần ban hành luật khung và nhường lại “dư địa” cho Chính phủ, bộ trưởng các bộ ban hành hướng dẫn. Trong bối cảnh hiện nay, AI là một quá trình tất yếu nên cần có luật khung điều chỉnh toàn bộ; còn những mảnh ghép mang tính kỹ thuật sẽ giao cho Chính phủ, bộ trưởng quy định.
Về giáo dục, giảng viên cũng đã sử dụng một số phần mềm như ChatGPT để giảng dạy. Tuy nhiên, những phần mềm cũng chỉ có thể đưa ra các văn bản, các tài liệu tiếng Anh. Còn tài liệu tiếng Việt chỉ cập nhật tới năm 2021 mà thôi, những loại tài liệu đã được mã hóa trên mạng mới được sử dụng, còn các sách chuyên sâu là không có.
Những phần mềm này cũng chỉ trả lời dựa trên các văn bản pháp luật đã công khai. Còn nhà giáo phải có trách nhiệm với những gì mình nghiên cứu và giảng dạy, cho dù AI giỏi thế nào, việc sử dụng AI như nào đi nữa thì người chịu trách nhiệm là chính nhà giáo.
Sự phát triển của AI là một tiến trình không thể đảo ngược, đặt ra những thách thức lớn về mặt pháp lý mà Việt Nam cần sớm giải quyết. Qua những phân tích về trách nhiệm y khoa và xe tự hành, ta thấy rõ một nguyên tắc cốt lõi: AI chỉ là công cụ hỗ trợ, còn con người luôn là chủ thể chịu trách nhiệm cuối cùng.
Do đó, trách nhiệm nghiên cứu và kiểm chứng trong sử dụng AI phải được đề cao hơn bao giờ hết. Sự kết hợp giữa luật khung linh hoạt và ý thức trách nhiệm của con người chính là chìa khóa để khai thác tối đa lợi ích của AI, đồng thời kiểm soát được những rủi ro pháp lý tiềm ẩn.
TS CAO VŨ MINH, Trưởng bộ môn luật Hành chính - Nhà nước,
khoa Luật, Trường ĐH Kinh tế - Luật, ĐH Quốc gia TP.HCM