Các doanh nghiệp châu Á - Thái Bình Dương đẩy mạnh cam kết phát thải ròng bằng 0

Đa số doanh nghiệp đang chuyển hướng sang các mục tiêu được khoa học xác thực để đảm bảo tính hiệu quả trong quá trình chuyển đổi xanh.

Ấn bản thứ ba của Báo cáo bền vững khu vực Châu Á - Thái Bình Dương Sustainability Counts III, do PwC Singapore và Trung tâm Quản trị và Bền vững (CGS) tại Trường Kinh doanh Đại học Quốc gia Singapore (NUS) công bố ngày 21/2/2025, đã cho thấy cả những tiến bộ và thách thức trong báo cáo bền vững của khu vực. Dù nhiều công ty Châu Á - Thái Bình Dương đã đặt mục tiêu phát thải ròng bằng 0, chỉ có 18% củng cố những tham vọng này với các mục tiêu được xác minh bởi Sáng kiến Mục tiêu Dựa trên Cơ sở Khoa học (SBTi).

Báo cáo cũng chỉ ra rằng các tiêu chuẩn và hướng dẫn hiện hành đang được đánh giá và cập nhật. SBTi đang trong quá trình xem xét Tiêu chuẩn net zero của Doanh nghiệp, và tương tư, Nghị định thư Khí nhà kính (KNK) cũng đang tiến hành các cuộc khảo sát để điều chỉnh phạm vi các tiêu chuẩn và hướng dẫn của mình.

Nghiên cứu cũng cho thấy sự gia tăng trong việc công bố lượng khí thải Phạm vi 3 mặc dù các doanh nghiệp vẫn còn có thể cung cấp thông tin chi tiết hơn về các loại phát thải trong phạm vi này. Khi thế giới đang quan tâm đến các vấn đề hành động khí hậu, nghiên cứu này xem xét hoạt động báo cáo bền vững của 50 công ty niêm yết hàng đầu của 14 nền kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương và cho thấy thực trạng báo cáo bền vững trong khu vực.

Trong số 700 công ty được nghiên cứu: 53% (371 công ty) đã đề ra cam kết phát thải ròng bằng 0 (net zero), tăng so với mức 47% (329 công ty) trong báo cáo năm ngoái;

37% trong số 371 công ty có mục tiêu net zero này đã mô tả mục tiêu của họ có cơ sở khoa học, nhưng chỉ có 18% có mục tiêu net zero được xác minh bởi Sáng kiến Mục tiêu Dựa trên Cơ sở Khoa học (SBTi);

63% trong số 650 công ty công bố lượng khí thải Phạm vi 3, tăng từ mức 50% trong số 700 công ty từ báo cáo năm ngoái; tuy nhiên, hầu hết đều đưa ra phân tích với số danh mục tối thiểu;

Trong số 638 công ty mô tả cách tiếp cận của họ đối với trọng yếu, 51% cho biết họ đã áp dụng cách đánh giá trọng yếu kép - bao gồm đánh giá trên hai góc độ (các tác động từ các hoạt động vận hành của công ty lên môi trường và xã hội và ngược lại, các tác động của môi trường và xã hội lên khía cạnh tài chính của công ty);

Gần một nửa trong số 357 công ty đã thực hiện phân tích kịch bản khí hậu, công bố cả kịch bản định lượng và định tính (45%), một số lượng tương đương (46%) các công ty chỉ công bố các kịch bản khí hậu định tính, cho thấy việc định lượng rủi ro liên quan đến khí hậu vẫn chưa hoàn thiện;

62% công ty đã bao gồm các phần về thiên nhiên và đa dạng sinh học trong báo cáo, mặc dù chỉ có 7% theo khuôn khổ báo cáo của Lực lượng đặc nhiệm về công bố thông tin tài chính liên quan đến thiên nhiên (TNFD) về thiên nhiên và đa dạng sinh học của họ.

Ảnh minh họa: Nguồn Internet

Ảnh minh họa: Nguồn Internet

Giáo sư Lawrence Loh, Giám đốc Trung tâm Quản trị và Phát triển Bền vững tại Trường Kinh doanh Đại học Quốc gia Singapore, chia sẻ:

"Mặc dù các công ty Châu Á - Thái Bình Dương đã đạt được những bước tiến đáng kể trong báo cáo bền vững, đặc biệt là với sự tăng trưởng lớn trong việc công bố phát thải Phạm vi 3, vẫn còn nhiều hạn chế trong việc xác minh và minh bạch thông tin. Một số ít công ty đã xác nhận các mục tiêu net zero của họ thông qua Sáng kiến Mục tiêu Dựa trên Cơ sở Khoa học. Điều này cho thấy nhu cầu cấp thiết về nâng cao trách nhiệm giải trình. Tiếp nối lời kêu gọi hành động vì khí hậu khẩn cấp ở COP29, nghiên cứu của chúng tôi nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng các khuôn khổ quản trị mạnh mẽ và các chiến lược khí hậu thiết thực để thúc đẩy phát triển bền vững trên khắp Châu Á - Thái Bình Dương."

Những kết quả chính khác từ nghiên cứu:

Các công ty áp dụng đánh giá trọng yếu kép

Nghiên cứu năm nay xem xét thêm phương pháp đánh giá trọng yếu, cho dù đó là trọng yếu tác động, trọng yếu tài chính hay trọng yếu kép. 51% công ty cho biết họ áp dụng cách đánh giá trọng yếu kép - bao gồm đánh giá trên hai góc độ (các tác động từ các hoạt động vận hành của công ty lên môi trường và xã hội và ngược lại, các tác động của môi trường và xã hội lên khía cạnh tài chính của công ty) - theo sau đó là 18% công ty áp dụng cách đánh giá trọng yếu ở một góc độ (các tác động từ các hoạt động vận hành của công ty lên môi trường và xã hội). Điều này cho thấy các công ty không chỉ tập trung vào khả năng tài chính mà còn quan tâm tác động đến xã hội và môi trường.

Các công ty củng cố thêm năng lực để xác định các rủi ro và cơ hội liên quan đến khí hậu, nhưng việc định lượng các rủi ro đó vẫn đang diễn ra

Trên khắp Châu Á - Thái Bình Dương, 81% trong số 650 công ty được nghiên cứu đã công bố quy trình quản lý rủi ro và/ hoặc cơ hội liên quan đến khí hậu, tăng so với mức 74% trong số 700 công ty từ báo cáo năm ngoái. Hơn nữa, 9 trong số 13 nền kinh tế đã chứng kiến sự gia tăng trong việc công bố về quy trình quản lý rủi ro và cơ hội liên quan đến khí hậu so với báo cáo năm ngoái.

Mặc dù nhu cầu phân tích định lượng tác động của các kịch bản khí hậu bên cạnh việc phân tích định tính đang tăng cao, báo cáo cho thấy gần một nửa (45%) trong số 650 công ty đã thực hiện phân tích cả định lượng và định tính các kịch bản khí hậu. Trong khi đó, một số lượng tương tự các công ty (46%) chỉ công bố phân tích kịch bản định tính. Điều này cho thấy việc phát triển và công bố phân tích kịch bản định lượng đặt ra một số thách thức, bao gồm thiếu dữ liệu chính xác và toàn diện về tác động khí hậu, phát thải và các chỉ số tài chính.

Ông Nguyễn Hoàng Nam, Lãnh đạo Dịch vụ Môi trường, Xã hội và Quản trị (ESG), PwC Việt Nam chia sẻ:

"Các yêu cầu về ESG ngày càng tăng cả trong nước và quốc tế. Tại Việt Nam, Thông tư 96/2020/TT-BTC đã thúc đẩy việc công bố thông tin bền vững, yêu cầu các công ty đại chúng báo cáo về tác động ESG. Tiếp theo đó, Nghị định 06/2022/NĐ-CP tập trung vào giảm phát thải khí nhà kính và kinh doanh tín chỉ carbon, trong khi Nghị định 08/2022/NĐ-CP quy định trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất. Các công ty phải cân bằng các mục tiêu bền vững với nhu cầu tài chính ngắn hạn và lợi ích dài hạn.

Mặc dù hành trình hướng tới công bố thông tin phát triển bền vững toàn diện của Việt Nam đang ở giai đoạn sơ khai, nhưng những nền tảng đã được thiết lập. Các doanh nghiệp nên tận dụng đà phát triển này bằng cách áp dụng các thông lệ tốt nhất, tuân theo các khung hướng dẫn quốc tế và hướng tới mức độ đảm bảo cao hơn để đáp ứng kỳ vọng của các bên liên quan, đồng thời đóng góp vào các mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam. Việc thực hành ESG không chỉ là tuân thủ mà còn là chìa khóa kiến tạo giá trị và mang lại lợi ích kinh doanh."

Báo cáo về thiên nhiên và đa dạng sinh học đã phổ biến hơn, nhưng việc áp dụng khung TNFD vẫn ở giai đoạn sơ khai

Các vấn đề về thiên nhiên và đa dạng sinh học ngày càng quan trọng và trở thành một phần trong báo cáo phi tài chính của một tổ chức, đặc biệt là khi mối liên hệ giữa thiên nhiên và khí hậu được hiểu rõ hơn. Mặc dù hơn một nửa (62%) các công ty được khảo sát đã đưa các phần về thiên nhiên và đa dạng sinh học vào báo cáo phát triển bền vững của họ, chỉ 7% chia sẻ rằng họ hiện đang tham khảo theo khung TNFD cho báo cáo về thiên nhiên và đa dạng sinh học của họ, trong khi 11% có kế hoạch triển khai trong tương lai.

Tiến bộ trong việc công bố lượng phát thải khí nhà kính Phạm vi 3 dù còn nhiều thách thức

Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ các công ty công bố lượng phát thải khí nhà kính Phạm vi 1 và Phạm vi 2 tăng, từ 80% trong số 700 công ty trong năm trước lên 88% trong số 650 công ty trong năm nay cho cả hai phạm vi. Tỷ lệ báo cáo lượng phát thải khí nhà kính Phạm vi 3 vẫn thấp hơn, nhưng tỷ lệ này cho thấy sự cải thiện đáng kể, tăng từ 50% lên 63%. Mặc dù có những tiến bộ, nhưng nhiều công ty vẫn chỉ tập trung vào việc báo cáo các loại phát thải Phạm vi 3 đơn giản hơn, như lượng phát thải khí nhà kính đến từ phương thức vận chuyển khi nhân viên đi công tác.

Tiến độ trong trách nhiệm của hội đồng quản trị và công bố thù lao liên quan đến hiệu suất thực hành phát triển bền vững

Nghiên cứu nhấn mạnh những cải tiến liên tục trong việc báo cáo phát triển bền vững, với 86% công ty thực hiện báo cáo trách nhiệm của hội đồng quản trị đối với các thực hành phát triển bền vững, phản ánh việc các công ty thực hiện công bố các thông tin về quản trị nhiều hơn khi ngày càng nhiều các luật định yêu cầu báo cáo các thông tin liên quan đến khí hậu. Hơn nữa, 42% công ty đã gắn phúc lợi điều hành với hiệu suất hoặc mục tiêu phát triển bền vững, tăng so với mức 33% của báo cáo năm ngoái, cho thấy sự liên kết mạnh mẽ hơn giữa đãi ngộ dành cho lãnh đạo với các mục tiêu phát triển bền vững. Tuy nhiên, chỉ có 6% công ty đã công bố tỷ lệ phần trăm thù lao cụ thể liên quan đến hiệu suất hoặc mục tiêu liên quan đến khí hậu, chưa đáp ứng các khuyến nghị trong IFRS S2 - Chuẩn mực Công bố thông tin về các rủi ro và cơ hội liên quan đến khí hậu.

Kỳ vọng của các bên liên quan về thực hiện đảm bảo các thông tin về phát triển bền vững

Nhu cầu về thông tin phát triển bền vững đáng tin cậy, chẳng hạn như từ các nhà đầu tư, đã dẫn đến sự gia tăng về các thực hành đảm bảo độc lập các dữ liệu trong các báo cáo phát triển bền vững. Nghiên cứu cho thấy 60% công ty tìm kiếm sự đảm bảo độc lập, tăng từ 49% so với báo cáo năm ngoái, mặc dù các quy định về bảo đảm chỉ bắt đầu một số năm sau đó. Tuy nhiên, 78% các công ty có đảm bảo độc lập chỉ tìm kiếm sự đảm bảo hạn chế hoặc trung bình, cho thấy khả năng cải thiện tính mạnh mẽ của các hoạt động đảm bảo. Khi các nhà đầu tư tìm kiếm sự rõ ràng và nhất quán hơn, nhiều quốc gia đang xem xét hoặc bắt buộc công bố thông tin báo cáo bền vững, với kế hoạch tiến tới đảm bảo hợp lý.

Việt Nam đang thúc đẩy hoạt động báo cáo phát triển bền vững, mặc dù vẫn còn nhiều những thách thức so với các nền kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương khác.

Ấn phẩm thứ 3 của nghiên cứu cho thấy, báo cáo phát triển bền vững ở Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn sơ khai, đặt ra yêu cầu các công ty phải cải thiện thực tiễn công bố thông tin của họ, đặc biệt là trong khía cạnh quản trị phát triển bền vững.

Một số lĩnh vực đã đạt được những tiến bộ đáng ghi nhận trong việc công bố các mục tiêu Đạt phát thải ròng bằng 0, tích hợp các rủi ro liên quan đến khí hậu vào quản lý rủi ro tổng thể và xác định phạm vi báo cáo. Ngoài ra, các công ty ngày càng chú trọng đến việc ghi nhận vai trò trách nhiệm của ban Lãnh đạo

trong các thực hành phát triển bền vững của công ty và liên kết lương thưởng của họ với hiệu suất thực hành phát triển bền vững.

Mặc dù đã có những tiến bộ nhất định, vẫn còn những thách thức cần được giải quyết. Đáng chú ý là sự sụt giảm đáng kể trong việc xác định các yếu tố ESG chính, thiết lập mục tiêu với các mốc thời gian, nhận diện và quản lý các rủi ro và cơ hội liên quan đến khí hậu. Các báo cáo liên quan đến quản trị, chẳng hạn như công tác đào tạo hội đồng quản trị và quản lý tính bền vững chưa có tiến triển đáng kể nào trong ba năm qua. Hiện các công ty đã tiến hành thực hiện đảm bảo số liệu trong báo cáo, tuy nhiên mức độ đảm bảo còn thấp, nhấn mạnh tính cần thiết trong việc cải thiện chất lượng của các thông tin trong báo cáo.

Mai Hương

Nguồn TBNH: https://thoibaonganhang.vn/cac-doanh-nghiep-chau-a-thai-binh-duong-day-manh-cam-ket-phat-thai-rong-bang-0-160727.html