Bước chuẩn bị cho kinh tế đột phá

Bức tranh kinh tế Việt Nam ghi nhận nhiều điểm sáng. Các yếu tố kinh tế vĩ mô cơ bản vẫn duy trì ổn định, lạm phát sẽ giảm xuống và Việt Nam còn nền tảng vững chắc để duy trì đà tăng trưởng trong dài hạn.

Khẳng định vị thế một nền kinh tế đang lên của châu Á

Đà tăng trưởng được phản ánh rõ ở thu nhập bình quân đầu người. Tại Hà Nội, mức thu nhập bình quân đầu người hằng năm đã tăng từ 1.200 USD vào năm 1990 lên 16.385 USD hiện nay, minh chứng cho quá trình chuyển mình thành trung tâm sản xuất toàn cầu của Việt Nam. Đáng chú ý, sau quá trình sáp nhập đơn vị hành chính, cả 34 địa phương đều có chỉ số sản xuất tăng.

Xuất khẩu đã cải thiện đầu năm 2025 và Việt Nam tiếp tục ghi nhận thặng dư thương mại mạnh mẽ. Kim ngạch xuất khẩu 7 tháng đạt 262,4 tỷ USD, tăng 14,8%; xuất siêu ước đạt 10,2 tỷ USD.

Dòng vốn FDI đã cải thiện mạnh mẽ, đạt gần 24,1 tỷ USD, tăng 27,3% so với cùng kỳ, dẫn đầu là lĩnh vực sản xuất, tiếp theo là lĩnh vực bất động sản; khách quốc tế đến Việt Nam đạt hơn 12,2 triệu lượt người, tăng 22,5%, tạo động lực lớn cho ngành dịch vụ và du lịch; tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 7 tháng tăng 9,3%; sản xuất - kinh doanh tăng trưởng tích cực.

“Sự gia tăng số lượng đơn đặt hàng mới đã tạo ra hiệu ứng lan tỏa tích cực. Đặc biệt, sự tăng trưởng của các đơn hàng nội địa là tín hiệu quan trọng, cho thấy ngành sản xuất Việt Nam không hoàn toàn phụ thuộc vào thị trường xuất khẩu, đồng thời phản ánh rõ khả năng tự thích ứng linh hoạt của nền kinh tế”- báo cáo của S&P Global nhận định.

Hoạt động sản xuất tại Khu công nghiệp Quang Minh, Hà Nội. Ảnh: Phạm Hùng

Hoạt động sản xuất tại Khu công nghiệp Quang Minh, Hà Nội. Ảnh: Phạm Hùng

Các tổ chức tài chính quốc tế liên tiếp đưa ra đánh giá tích cực, điều chỉnh tăng dự báo tăng trưởng GDP của Việt Nam trong năm 2025, nhấn mạnh vào khả năng chống chịu và phục hồi mạnh mẽ của nền kinh tế.

Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) dự báo quy mô kinh tế của Việt Nam năm 2025 ước đạt 491 tỷ USD, xếp thứ 34 trên thế giới và thứ 5 trong khu vực Đông Nam Á. Dự báo này dựa trên kết quả đạt được năm 2024 với GDP đạt 476,3 tỷ USD, quy mô kinh tế của Việt Nam cao thứ 4 trong khu vực Đông Nam Á xếp trên Philippines (462 tỷ USD) và Malaysia (422 tỷ USD). IMF ước tính đến năm 2029, quy mô kinh tế của Việt Nam sẽ đạt 627 tỷ USD, vượt qua Thái Lan (616 tỷ USD) để trở thành nền kinh tế lớn thứ 32 trên thế giới, và thứ 4 trong khu vực Đông Nam Á. Thứ hạng của Việt Nam tiếp tục được giữ vững trong năm 2030, khi quy mô kinh tế được dự báo sẽ đạt 666,5 tỷ USD.

Mở rộng không gian tăng trưởng

Đầu tháng 8, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 226/NQ-CP về mục tiêu tăng trưởng các ngành, lĩnh vực, địa phương và các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm để bảo đảm tăng trưởng cả nước năm nay đạt 8,3 - 8,5%; đồng thời, đạt tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân năm 2025 dưới 4,5%. Bên cạnh đó, tổng đầu tư toàn xã hội năm 2025 tăng 11 - 12%; huy động và thực hiện vốn đầu tư toàn xã hội trong 6 tháng cuối năm khoảng 2,8 triệu tỷ đồng… Để đạt được mục tiêu này, Chính phủ yêu cầu các bộ, ngành, địa phương tập trung vào một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm: thúc đẩy động lực tăng trưởng từ đầu tư, tiêu dùng và xuất khẩu; phát triển các động lực tăng trưởng mới; bảo đảm chính quyền địa phương hoạt động hiệu quả; và xây dựng kịch bản tăng trưởng cho các tháng cuối năm.

Xuất khẩu cùng dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vẫn là hai động lực tăng trưởng chính của nền kinh tế Việt Nam. Điều này khiến đất nước dễ bị tác động từ các cú sốc bên ngoài. Để giảm thiểu rủi ro, Chính phủ Việt Nam kích cầu tiêu dùng nội địa, thúc đẩy thương mại trong nước bằng nhiều giải pháp đã được thực hiện như giảm thuế, giảm lãi suất, tăng lương; đồng thời thúc đẩy nhu cầu nội địa thông qua các gói đầu tư hạ tầng quy mô lớn.

Báo The Nation đưa tin, 1,28 triệu tỷ đồng - tương đương 10% GDP của Việt Nam, sẽ được phân bổ cho 250 dự án hạ tầng và nhà ở trên toàn đất nước Việt Nam. Mục tiêu là đưa tăng trưởng GDP của Việt Nam đạt trên 8% trong năm 2025 và duy trì tốc độ hai con số trong giai đoạn tiếp theo, hướng tới trở thành “con hổ kinh tế châu Á”.

Tờ báo khẳng định: "Việt Nam ngày càng khẳng định vị thế là một nền kinh tế đang lên của châu Á, với khả năng sớm vượt Thái Lan trên nhiều phương diện".

Theo Văn phòng Chính phủ, trong 250 dự án, công trình trên địa bàn 34 tỉnh/TP đủ điều kiện để khởi công, khánh thành có 89 dự án, công trình khánh thành; 161 dự án, công trình khởi công. Trong số các dự án, nguồn vốn Nhà nước có 129 dự án với 478.000 tỷ đồng, chiếm 37% tổng mức và 121 dự án, công trình được đầu tư từ các nguồn vốn khác với 802.000 tỷ đồng, chiếm 63% tổng mức. Vốn FDI có 5 dự án với tổng vốn đầu tư khoảng 54.000 tỷ đồng.

Với quy mô vốn đầu tư rất lớn, trải rộng trên nhiều lĩnh vực và địa bàn, 250 dự án, công trình được khánh thành, khởi công nhân Kỷ niệm 80 năm Quốc khánh 2/9 vừa qua, không chỉ mở ra một không gian phát triển mới, mà còn lan tỏa sâu rộng trong toàn xã hội về đột phá xây dựng hạ tầng chiến lược.

Tạo niềm tin cho doanh nghiệp, nhà đầu tư

Dù vậy, Việt Nam vẫn phải đối diện với một số thách thức: mô hình tăng trưởng dựa vào lao động giá rẻ và xuất khẩu dần bộc lộ giới hạn, đòi hỏi sự chuyển dịch mạnh mẽ sang công nghệ cao, năng lượng xanh và mở rộng khu vực tư nhân.

Câu chuyện thuế quan một lần nữa cho thấy sự rủi ro của chuỗi cung ứng toàn cầu và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế trong bối cảnh địa chính trị ngày càng phức tạp. Trước đó, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) cũng cho rằng, tăng trưởng kinh tế Việt Nam dự kiến chững lại trong ngắn hạn bởi chính sách thuế quan của Mỹ.

Bản kiến nghị chính sách quý II/2025 của các chuyên gia Đại học Kinh tế Quốc dân nhận định, mô hình tăng trưởng của Việt Nam trong hơn ba thập kỷ qua chủ yếu dựa vào đầu tư và hướng ra xuất khẩu, thể hiện qua sự gia tăng mạnh mẽ tỷ lệ xuất khẩu/GDP. Tuy nhiên, sự phụ thuộc vào xuất khẩu cũng tạo ra rủi ro lớn khi suy giảm kinh tế hoặc căng thẳng thương mại gia tăng xảy ra giữa các đối tác thương mại lớn.

Mặc dù Việt Nam đã nỗ lực chuyển đổi sang mô hình tăng trưởng dựa trên khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, nhưng cần chất lượng nguồn nhân lực, nguồn lực đầu tư và môi trường kinh doanh thực sự thuận lợi. Vì thế, các cấp, ngành cần linh hoạt và quyết liệt hơn nữa trong chỉ đạo, điều hành chính sách, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh và tăng cường khả năng chống chịu của nền kinh tế để đạt mục tiêu tăng trưởng theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ từ 8,3 - 8,5% trong năm 2025.

Ông Nonarit Bisonyabut, nghiên cứu viên cao cấp tại Viện Nghiên cứu phát triển Thái Lan (TDRI) đánh giá cao tốc độ cải cách của Việt Nam. Quá trình cải thiện chất lượng thể chế của Việt Nam có những tiến bộ nhất định, đặc biệt trong việc tái cấu trúc bộ máy hành chính để nâng cao hiệu quả. Ông cho rằng, các thị trường lớn như Trung Quốc và Hàn Quốc đang ưu tiên hợp tác với Việt Nam hơn Thái Lan, trong bối cảnh hai nền kinh tế Đông Nam Á này đều tìm cách vươn lên thành cường quốc công nghệ số và trí tuệ nhân tạo (AI).

“Việt Nam có đủ dư địa chính sách để hỗ trợ nền kinh tế khi cần. Các cải cách nhằm cải thiện môi trường đầu tư và hạ tầng cũng đang giúp Việt Nam củng cố vị thế vững chắc hơn” - ông Dong He, Kinh tế trưởng của Văn phòng Nghiên cứu kinh tế vĩ mô ASEAN 3 cho biết.

Chính phủ cần cải cách chính sách thuế thu nhập giúp tăng cường khả năng điều tiết và tái phân bổ nguồn lực. Việc sử dụng nguồn thu từ thuế để đầu tư vào giáo dục và y tế công, hỗ trợ đào tạo nghề, mở rộng hệ thống an sinh xã hội không chỉ là hình thức tái phân phối thu nhập, mà còn là cách chuyển hóa hiệu quả giá trị kinh tế thành lợi ích thực chất cho người dân.

Đỗ Thiên Anh Tuấn - Trường Chính sách công và quản lý Fulbright

Trâm Anh

Nguồn KTĐT: https://kinhtedothi.vn/buoc-chuan-bi-cho-kinh-te-dot-pha.816292.html