Bộ trưởng Bộ Tài chính: Giảm thanh, kiểm tra trực tiếp, chuyển mạnh từ tiền kiểm sang hậu kiểm
Đại biểu Quốc hội đặt ra vấn đề: Nếu không có cơ chế hậu kiểm đủ mạnh, minh bạch và hiệu quả thì rất dễ trở thành kẽ hở để các 'công ty ma' lợi dụng.
Ngày 16/5, Quốc hội thảo luận ở hội trường về dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về cơ chế, chính sách phát triển kinh tế tư nhân. Đại biểu Quốc hội (ĐB) Nguyễn Thị Việt Nga (Đoàn Hải Dương) nhất trí với chủ trương chuyển mạnh từ tiền kiểm sang hậu kiểm, đặc biệt trong quản lý điều kiện kinh doanh. Đây là hướng đi phù hợp với thông lệ quốc tế, góp phần giảm chi phí tuân thủ cho doanh nghiệp, khuyến khích khởi nghiệp, sáng tạo và mở rộng sản xuất.

Đại biểu Quốc hội Nguyễn Thị Việt Nga phát biểu (Ảnh: Quang Vinh)
Tuy nhiên, theo bà Nga, nếu không có cơ chế hậu kiểm đủ mạnh, minh bạch và hiệu quả thì chính sách này rất dễ trở thành kẽ hở để các “công ty ma” lợi dụng. Thực tế đã cho thấy, nhiều đối tượng đã lợi dụng chính sách thông thoáng để lập ra hàng trăm công ty không hoạt động thực tế, mua bán hóa đơn, trốn thuế, rửa tiền, gây thất thu ngân sách và làm méo mó môi trường cạnh tranh. Có vụ việc cơ quan chức năng đã phát hiện tới hơn 600 doanh nghiệp “ma” xuất trên 1 triệu hóa đơn khống, với giá trị giao dịch lên tới gần 64.000 tỷ đồng.
Do đó, bà Nga đề nghị để triển khai Nghị quyết, Chính phủ cần quy định cụ thể và bổ sung rõ các yêu cầu cụ thể đối với hệ thống hậu kiểm: liên thông dữ liệu giữa các cơ quan thuế, hải quan, ngân hàng; kiểm tra thực địa; ứng dụng công nghệ số trong giám sát; và chế tài đủ sức răn đe. Đồng thời, cần quy định rõ các ngành, lĩnh vực buộc phải tiền kiểm, trên cơ sở rủi ro và kinh nghiệm quốc tế, để tránh áp dụng tràn lan hoặc lỏng lẻo.

Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng giải trình (Ảnh: Quang Vinh)
Giải trình làm rõ thêm các góp ý của đại biểu Quốc hội, Bộ trưởng Tài chính Nguyễn Văn Thắng cho biết, các quy định, chính sách nêu tại dự thảo nghị quyết nhằm thể chế hóa các nội dung của Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị. Theo đó, nhiều chính sách có tính vượt trội với hộ, cá nhân kinh doanh được quy định tại dự thảo nghị quyết. Một số nội dung đang được quy định tại các luật, nghị quyết khác như thanh, kiểm tra, giải quyết phá sản, xử lý vi phạm.
Ông Thắng cho hay, dự thảo Nghị quyết chỉ đưa ra quy định mang tính nguyên tắc, đảm bảo tuân thủ đúng chủ trương của Nghị quyết 68 và đảm bảo phân cấp cho địa phương, đảm bảo minh bạch, khả thi.
Với chương trình hỗ trợ để có các doanh nghiệp vừa và lớn, tập đoàn kinh tế tư nhân quy mô khu vực, quốc tế nêu tại dự thảo nghị quyết, ông Thắng cho hay nguồn lực sẽ được đánh giá trong quá trình xây dựng, đảm bảo khả thi, hiệu quả. Chính sách thuế phí được xây dựng trên tinh thần nuôi dưỡng nguồn thu.
Theo ông Thắng, trong thời gian ngắn có thể giảm nguồn thu, nhưng về dài hạn các chính sách này giúp doanh nghiệp có thêm nguồn lực, đóng góp nhiều hơn cho ngân sách.
Liên quan tới bỏ thuế khoán với hộ kinh doanh từ 1/1/2026, nhiều ý kiến đại biểu lo ngại sẽ tạo gánh nặng tuân thủ khi họ phải kê khai, đăng ký thuế, song ông Thắng khẳng định, việc này là chủ trương đúng đắn, tạo bình đẳng, khuyến khích hộ kinh doanh chuyển thành doanh nghiệp.
Ông Thắng nêu rõ, Bộ Tài chính đang thí điểm chính sách này tại một số địa bàn, nhận thấy chính sách này hiệu quả, cần được chính thức triển khai sớm. Bộ cũng đang chỉ đạo cơ quan thuế, hướng dẫn các hộ kinh doanh đăng ký, kê khai thuế, tăng ứng dụng công nghệ, hạ tầng vật chất để giảm gánh nặng chi phí, khuyến khích hộ kinh doanh chuyển đổi.
Về chính sách hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư hạ tầng, ông Thắng cho biết, dự thảo Nghị quyết đã quy định sau 2 năm nếu khu công nghiệp không có doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân, đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp, chủ đầu tư có thể cho thuê lại với đối tượng doanh nghiệp khác. Thông thường để khu công nghiệp lấp đầy cần vài năm, nên 2 năm thường là khoảng thời gian để chủ đầu tư hoàn thiện cơ sở hạ tầng tại khu công nghiệp. Cùng với đó, Nhà nước đã có chính sách hỗ trợ đối tượng đươc thuê, như giảm tiền thuê đát tối thiểu 30%. Nhà nước cũng hỗ trợ ngược lại chủ đầu tư làm hạ tầng khu công nghiệp qua khấu trừ tiền thuê đất. Như vậy, những rủi ro với doanh nghiệp kinh doanh hạ tầng gần như rất nhỏ nếu có.
Về quy định thanh, kiểm tra tối đa một lần trong năm với doanh nghiệp, trừ trường hợp có dấu hiệu vi phạm rõ ràng, ông Thắng giải thích; việc này nhằm hướng tới giảm thanh, kiểm tra trực tiếp, chuyển mạnh từ tiền kiểm sang hậu kiểm và không làm giảm hiệu lực quản lý Nhà nước, không cản trở hoạt động của doanh nghiệp cũng như không hạn chế thanh, kiểm tra. Bởi trường hợp doanh nghiệp có dấu hiệu vi phạm, các cơ quan vẫn có quyền thanh tra, kiểm tra đột xuất.
“Chúng tôi sẽ tiếp thu, hoàn thiện dự thảo nghị quyết để có tính thực tiễn, khả thi và thống nhất quy định hiện hành”, ông Thắng nói.