Bài 2: Đồng bộ và tránh chồng chéo trong thực thi Luật Điện lực (sửa đổi)
Sau gần 20 năm triển khai thi hành và qua 03 lần sửa đổi, bổ sung, đến nay Luật Điện lực cần phải được nghiên cứu sửa đổi, bổ sung để kịp thời điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong thực tiễn hoạt động điện lực và sử dụng điện. Tất cả để đạt tới sự minh bạch, công bằng, đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia.
Luật Điện lực (sửa đổi) phải được đồng bộ
Theo Bộ Công Thương, cơ chế, chính sách đối với ngành điện còn thiếu đồng bộ. Các văn bản pháp luật liên quan đến cung ứng điện còn nhiều bất cập, mâu thuẫn, nhiều nội dung không rõ ràng, còn nhiều vướng mắc.
Đơn cử là về phân cấp quản lý nhà nước giữa Trung ương và địa phương trong lĩnh vực điện lực (vướng mắc về thẩm quyền). Giai đoạn 2015-2020, Luật Đầu tư số 67/2014/QH13 chưa quy định thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư các dự án nhóm A có tổng mức đầu tư (từ 2.300 đến dưới 5.000 tỷ đồng) sử dụng vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước và các dự án xây dựng trên địa bàn nhiều tỉnh. Đến năm 2021, Luật Đầu tư số 61/2020/QH14 có hiệu lực, đã quy định rõ thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư để tháo gỡ vướng mắc nêu trên.
Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp số 69/2014/QH13 và Nghị định số 131/2018/NĐ-CP ngày 29/9/2018 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp chưa quy định rõ việc “xem xét, phê duyệt” của Ủy ban Quản lý vốn nhà nước trong thủ tục trình phê duyệt dự án đầu tư đối với các dự án sử dụng vốn nhà nước.
Còn về quy trình đầu tư (về thẩm quyền quyết định dự án đầu tư) giữa Luật số 69/2014/QH13 khác với trình tự thủ tục đầu tư tại Luật Đầu tư, Luật Xây dựng và Luật Đầu tư công.
Mặc dù, tại điểm a, khoản 3, Điều 4 Luật Đầu tư số 61/2020/QH14 quy định: Trường hợp có quy định khác nhau giữa Luật Đầu tư và luật khác đã được ban hành trước ngày Luật Đầu tư có hiệu lực thi hành về trình tự, thủ tục đầu tư kinh doanh, bảo đảm đầu tư thì thực hiện theo quy định của Luật Đầu tư, trừ các trường hợp sau đây “Việc đầu tư, quản lý, sử dụng vốn đầu tư của nhà nước tại doanh nghiệp thực hiện theo quy định của Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp”.
Tuy nhiên, các dự án điện sử dụng vốn nhà nước vẫn còn chưa rõ ràng trong tổ chức thực hiện trình, thẩm định, phê duyệt chủ trương đầu tư theo Luật Đầu tư quy định “có” hay “không” thực hiện thủ tục này.
Xóa chồng chéo trong quản lý điện lực
Về vướng mắc liên quan đến các quy định pháp luật trong thực hiện đầu tư các dự án điện, quá trình triển khai các dự án điện sử dụng vốn nhà nước còn nhiều bất cập, chưa có quy trình thực hiện rõ ràng vì liên quan đến nhiều luật, nhiều ngành. Nhiều thủ tục phải thực hiện, có sự chồng chéo mà chưa được quy định tối giản/xem xét đồng thời trong các giai đoạn (chuẩn bị đầu tư, đầu tư,...) do chịu sự điều chỉnh của nhiều luật liên quan.
Từ năm 2018 đến nay, các dự án điện lớn do các tập đoàn kinh tế nhà nước triển khai thực hiện gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, dẫn đến nhiều dự án chưa thực hiện đầu tư xây dựng hoặc triển khai rất chậm, không đáp ứng theo tiến độ quy hoạch. Trong đó, khó khăn trong việc điều chỉnh quy hoạch để thực hiện đầu tư, xây dựng các dự án điện nhằm đáp ứng nhu cầu cung cấp điện. Việc rà soát, điều chỉnh quy hoạch phát triển điện lực quốc gia còn chậm, thiếu các tiêu chí rõ ràng, chưa có quy định để tạo cơ chế điều hành linh hoạt trong triển khai thực hiện quy hoạch để đảm bảo cung ứng điện.
Trong góp ý xây dựng Luật Điện lực (sửa đổi) của Hội Dầu khí Việt Nam nêu rõ, việc điều chỉnh các thông số dự án từ giai đoạn quy hoạch đến triển khai thi công là một quá trình nghiên cứu với mức độ chính xác tăng dần theo từng bước, từng giai đoạn nghiên cứu, thiết kế theo quy định của pháp luật về xây dựng. Do đó, việc điều chỉnh các thông số kỹ thuật của các dự án điện trong quá trình đầu tư xây dựng là cần thiết và cần phải được quy định cụ thể tại Luật này.
Bên cạnh đó, vẫn đang thiếu các cơ chế đặc thù cho phát triển ngành điện đã gây rất nhiều khó khăn đối với công tác phát triển điện lực theo đúng quy hoạch đã đề ra. Việc xác định tiêu chí thế nào về “các vấn đề bức thiết về bảo đảm an ninh năng lượng” thì chưa có quy định cụ thể tại bất kỳ văn bản quy phạm pháp luật nào, dẫn tới thiếu hành lang pháp lý để triển khai quy định này.
Mặt khác, để áp dụng cơ chế đặc thù theo Luật Xây dựng thì thủ tục cần thực hiện cho riêng từng công trình, chưa có cơ sở áp dụng chung cho nhóm công trình có tính chất cấp bách như nhau, chưa giải quyết được vấn đề cấp thiết cần rút ngắn thời gian thực hiện cho các dự án theo quy hoạch được duyệt. Tiếp đến, còn vướng mắc, hạn chế về tổ chức bộ máy quản lý nhà nước ở Trung ương và địa phương trong thực hiện quy hoạch, đầu tư phát triển điện lực.
Công tác quản lý nhà nước đối với việc triển khai thực hiện quy hoạch còn chưa hiệu quả, thủ tục triển khai dự án phức tạp. Điều hành, quản lý việc thực hiện quy hoạch còn nhiều hạn chế, thiếu quyết liệt và chưa có giải pháp kịp thời thúc đẩy các dự án nguồn và lưới điện vào đúng tiến độ. Trong khi đó, tại nhiều địa phương vẫn thiếu tính tuân thủ và sự phối hợp, ủng hộ đối với quy hoạch đã được phê duyệt, chậm bố trí nguồn lực (đất đai,...) để triển khai dự án, một số trường hợp các địa phương trước đây đã phê duyệt quy hoạch sau lại thay đổi khiến quy hoạch điện bị phá vỡ rất nhiều lần.
Đặc biệt, Luật Điện lực chưa có chế tài ràng buộc trách nhiệm của các chủ đầu tư khi thực hiện chậm trễ các dự án đầu tư xây dựng công trình điện. Mặc dù, Luật Đầu tư, Luật Đất đai đã có các quy định xử lý các trường hợp cần thu hồi dự án, tuy nhiên trong thực tế, việc thực hiện thủ tục này chưa quyết liệt từ các cơ quan có thẩm quyền tại Trung ương và địa phương.
Có thể thấy rằng, Luật Điện lực hiện hành đã không còn phù hợp và đang có sự chồng chéo với nhiều luật khác. Để đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, phát triển kinh tế, phục vụ đời sống của người dân... việc sớm sửa đổi Luật Điện lực đã thực sự cấp bách.
Từ năm 2018 đến nay, các dự án điện lớn do các tập đoàn kinh tế nhà nước triển khai thực hiện gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc, dẫn đến nhiều dự án chưa thực hiện đầu tư xây dựng hoặc triển khai rất chậm, không đáp ứng theo tiến độ quy hoạch.