Xứng danh Quân đội anh hùng của dân tộc anh hùng

Đất nước mình nhiều giặc giã nên trong truyền thuyết cũng có nhiều hình tượng anh hùng giữ nước, tiêu biểu là Thánh Gióng chống giặc ngoại xâm và Tản Viên chống giặc thiên tai.

Thế giới khẳng định Việt Nam là dân tộc anh hùng vì không bao giờ chịu khuất phục kẻ xâm lược và đã viết vào lịch sử công lý nhân loại những trận đánh kinh điển về chiến tranh nhân dân để bảo vệ non sông, đất nước, cũng là bảo vệ lẽ phải. Truyền thuyết và lịch sử là những mạch nguồn văn hóa nuôi dưỡng Quân đội của Bác Hồ, của Đảng ta có sức mạnh vô địch, với sứ mệnh cao cả, thiêng liêng: “Nếu được làm hạt giống để mùa sau/ Nếu lịch sử chọn ta làm điểm tựa/ Vui gì hơn làm người lính đi đầu/ Trong đêm tối, tim ta làm ngọn lửa!” ("Chào xuân 67", Tố Hữu). Vai trò tiên phong đuổi giặc xâm lăng, bảo vệ cách mạng, che chở dân, giúp dân của Quân đội ta cũng giống như sứ mệnh của chàng Đan Kô-huyền thoại nổi tiếng thế giới, móc trái tim làm ngọn đuốc soi đường cho đồng bào mình đi về phía tự do, hạnh phúc.

Quân đội luyện tập diễu binh, diễu hành tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội). Ảnh: TRỌNG HẢI

Quân đội luyện tập diễu binh, diễu hành tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội). Ảnh: TRỌNG HẢI

Góp phần lập quốc, đi đầu vệ quốc

Với tầm nhìn đi trước thời đại, ngay từ khi mới thành lập, trong Chánh cương vắn tắt của Đảng (tháng 2-1930) và Luận cương chính trị của Đảng (tháng 10-1930), Đảng ta đã chủ trương “tổ chức đội tự vệ của công nông” làm nòng cốt cho phong trào đấu tranh của quần chúng, tiến hành cách mạng bạo lực giành chính quyền. Các tổ chức vũ trang: Tự vệ đỏ (năm 1930-1931), Du kích Bắc Sơn, Du kích Nam Kỳ (năm 1940), Cứu quốc quân (năm 1941) ra đời. Ngày 22-12-1944, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân được thành lập, đánh dấu, khẳng định sự phát triển vượt bậc của LLVT cách mạng.

Tháng 3-1945, tình hình thế giới có nhiều thay đổi, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị xác định “tổ chức thêm nhiều bộ đội du kích và tiểu tổ du kích... thống nhất các chiến khu và thành lập Việt Nam cứu quốc quân”. Tháng 4-1945, Hội nghị Quân sự cách mạng Bắc Kỳ nhấn mạnh “cần phải thống nhất, củng cố và phát triển các bộ đội quân giải phóng” và “tổ chức các đội tự vệ, tự vệ chiến đấu, bộ đội địa phương là hình thức tổ chức mấu chốt trong lúc này”. Ngày 15-5-1945, Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, Cứu quốc quân và các tổ chức vũ trang khác hợp nhất thành Việt Nam Giải phóng quân. Đầu tháng 8-1945, thời cơ vàng “ngàn năm có một” mở ra cho cách mạng Việt Nam. Xác định rõ phải dùng bạo lực cách mạng giành và bảo vệ chính quyền, ngày 13-8-1945, Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc ra Quân lệnh số 1, phát động quân và dân Việt Nam vùng lên giành độc lập. Ngày 14-8-1945, Tổng bộ Việt Minh hiệu triệu quốc dân đồng bào và các đoàn thể cứu quốc, cùng Giải phóng quân đánh đuổi giặc Nhật... Nhắc lại vài sự kiện trên để khẳng định, Quân đội ta là lực lượng chủ yếu, chỗ dựa vững chắc của cách mạng, là “quả đấm thép”, góp phần quan trọng để Tổng khởi nghĩa thắng lợi.

Nhiều nghiên cứu phương Tây tìm hiểu về Cách mạng tháng 8-1945 của Việt Nam đã đặt ra câu hỏi: Vì sao cuộc khởi nghĩa diễn ra trong điều kiện bất lợi về địa hình, không thuận lợi về giao thông, tin tức, trong thời gian ngắn (2 tuần), trong không gian rộng từ Bắc chí Nam, nhưng lại thành công triệt để nhất? Họ tìm ra một nguyên nhân thắng lợi nằm ở hai chữ “tuyên truyền”. Dòng sông khát vọng độc lập, tự do chạy dọc dài đất nước đang sục sôi muốn tràn bờ, theo lệnh Tổng khởi nghĩa, các “tuyên truyền giải phóng quân” ở các địa phương nhất loạt khơi nguồn, tạo những dòng chảy vô cùng mạnh mẽ, cuốn phăng bè lũ thực dân, phát xít, phong kiến. Hồ Chí Minh thực sự là thiên tài khai sinh ra đội quân ấy và huấn luyện theo nguyên tắc “chính trị quan trọng hơn quân sự. Nó là đội tuyên truyền”.

Kẻ thù nào cũng đánh thắng

Nhà nước nào cũng cần đến quân đội-người “vệ sĩ trung thành”. Với chính quyền công nông non trẻ của ta, càng cần đến quân đội. Cuối tháng 9-1945, quân Pháp quay lại chiếm Sài Gòn. Ở phía Bắc, gần 20 vạn quân Tưởng chuẩn bị tiến vào. Phải có LLVT ngăn bước quân thù. Hàng triệu thanh niên đã tham gia các lực lượng dân quân, tự vệ, trong đó hơn 8 vạn người gia nhập Vệ quốc đoàn. Đến cuối năm 1945, Vệ quốc đoàn đã có 50.000 bộ đội chủ lực (1). Đến giữa năm 1946, phát triển lên gần 82.000 bộ đội chủ lực, hơn 1 triệu tự vệ, du kích (2). Không chỉ góp phần chủ yếu bảo vệ trọn vẹn thành quả cách mạng, Quân đội ta đã dần chuẩn bị sức mạnh cho kháng chiến trường kỳ.

Cả dân tộc vâng lời Bác đứng dậy kháng chiến. Quân đội cách mạng lại tiên phong trên tuyến đầu đuổi giặc. Bác dạy bộ đội: “Nhân dân là nền tảng, là cha mẹ của bộ đội”. Đấy là đạo lý truyền thống, là chân lý lịch sử, là nguyên lý cốt lõi, cơ bản góp phần quyết định tạo nên sức mạnh vô địch của Quân đội-được nhân dân yêu quý đặt tên là “Bộ đội Cụ Hồ”. Dưới cờ Đảng, toàn quân đoàn kết như một, làm theo lời Bác: “Trung với Đảng, hiếu với dân... Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Phát huy vai trò nòng cốt, Quân đội từng bước trưởng thành, được Bác khen: “Quân ta khí mạnh nuốt Ngưu Đẩu/ Thề diệt xâm lăng lũ sói cầy” ("Lên núi", năm 1950). Đó là sức mạnh phi thường tầm vũ trụ (nuốt cả sao Ngưu, sao Đẩu), tương phản triệt để với kẻ xâm lược như loài “sói cầy” lẩn lút chốn tối tăm.

Để có hòa bình, cả dân tộc phải đi dưới mưa bom bão đạn, phải đổ máu suốt 30 năm trời. Là con của dân, từ dân mà ra, vì dân mà chiến đấu, hy sinh, đi đầu trong sự nghiệp giữ nước, Bộ đội Cụ Hồ trở thành biểu tượng văn hóa vừa soi đường, dẫn đường, vừa nâng đỡ, bảo vệ dân. Như con chim đại bàng dũng mãnh, kiêu hãnh, hướng về chân trời độc lập, tự do, hình tượng anh bộ đội vượt qua mọi dông bão bằng hai cánh bay: Tính lý tưởng và vẻ đẹp nhân văn, để rồi trở thành một biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Thế nên trên cánh đồng lịch sử văn hóa dân tộc cũng có hai dòng chảy tính lý tưởng và tính nhân văn sâu lắng mà mạnh mẽ, góp phần làm nên một bản sắc Việt.

Ánh sáng lý tưởng từ hình tượng anh bộ đội tỏa rạng ra thế giới, biểu trưng cho vẻ đẹp tâm hồn Việt “hiên ngang, nhân ái, chan hòa”. Tình yêu nước hòa vào tình đồng chí: “Súng bên súng đầu sát bên đầu”, cùng hướng về ánh “trăng treo” hòa bình. Nếu biểu tượng anh “vệ quốc đoàn” được văn học nghệ thuật “tạc” vào không gian vũ trụ, thì anh “giải phóng quân” được “tạc” vào thời đại (thế kỷ) để kết thành “dáng đứng Việt Nam” ngời sáng tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Họ đều hiện thân cho giá trị văn hóa thiêng liêng, cao quý: “Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình/ (Những tuổi hai mươi làm sao không tiếc)/ Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc?” (Thanh Thảo). Lấy tuổi trẻ mình, máu thịt mình góp vào sự nghiệp giải phóng đất nước, chẳng phải là hành vi văn hóa cao nhất sao? Từ một Điện Biên “chấn động địa cầu”, đến “Điện Biên Phủ trên không” sửng sốt nhân loại, kết thành bó hoa Ngày Chiến thắng 30-4-1975 rực rỡ dâng lên Bác Hồ, Quân đội ta được thế giới khâm phục; còn hoàn thành vẻ vang nhiệm vụ hồi sinh nước bạn Campuchia, được nhân dân xứ chùa tháp gọi là “đội quân nhà Phật”.

Trong bất cứ hoàn cảnh nào, Quân đội ta cũng luôn nêu cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu cao; kịp thời tham mưu với Đảng, Nhà nước xử lý linh hoạt, hiệu quả các tình huống; bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ. Ở đâu dân cần, ở đó có bộ đội. Nơi bão tố, ngập lụt, hỏa hoạn, sự cố..., Quân đội lập tức có mặt làm điểm tựa chắc chắn cho dân.

Tỏa sáng hơn nữa tinh thần “Vì nhân dân quên mình”

Soi bài học thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, soi thành tích của Quân đội ta vào hôm nay, để thêm tự hào, thêm bản lĩnh, nghị lực phấn đấu.

Một là, từ thực tiễn cách mạng, Đảng ta khẳng định, nếu không có LLVT trung thành làm nòng cốt, chỗ dựa vững chắc hỗ trợ quần chúng đấu tranh, Tổng khởi nghĩa sẽ khó mau giành thắng lợi. Đáp ứng với hoàn cảnh quốc tế và đất nước thời hội nhập, trước những biến đổi khó lường, trước những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực đen tối ngày càng xảo quyệt, tinh vi, việc xây dựng Quân đội hiện đại càng phải kiên định nguyên tắc vững mạnh về chính trị. Cái gốc chính trị có khỏe khoắn, cây nhân cách bộ đội mới tốt tươi, cường tráng.

Hai là, triệt để học và làm theo tư tưởng Bác Hồ: “Kháng chiến phải đi đôi với kiến quốc”. Thời bình, Quân đội càng phải “kiến quốc” mạnh mẽ hơn. Ngoài vai trò là bệ đỡ, làm bệ phóng cho đất nước vươn mình cất cánh bay vào kỷ nguyên mới; ngoài chức năng bảo vệ hòa bình, giúp dân, bảo vệ dân, Quân đội cần tham gia “kiến quốc” tạo ra của cải vật chất góp phần vào sự phát triển chung. Quân đội cần thêm nhiều “Viettel”-một trong những doanh nghiệp đóng góp lớn nhất cho ngân sách nhà nước.

Ba là, “quả đấm thép” LLVT trong Cách mạng Tháng Tám không đông, trang bị thiếu thốn nhưng hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ. Thời đó, mỗi bộ đội, tự vệ, dân quân... như một ngọn đuốc “tuyên truyền” soi sáng, kêu gọi, cổ vũ đồng bào đứng dậy. Đấy là bài học trong việc tổ chức lực lượng tinh, gọn, mạnh cho Quân đội thời 4.0.

Bốn là, Cách mạng Tháng Tám chủ yếu là “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Quân đội hôm nay “đem sức ta mà hiện đại hóa ta”, bằng cách phát triển, ứng dụng khoa học, công nghệ quân sự; đổi mới sáng tạo; chuyển đổi số-những trụ cột xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại.

Đại tá, PGS, TS NGUYỄN THANH TÚ

(1), (2). Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (năm 2019) - Lịch sử quân sự Việt Nam, Tập 10: Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, tr183, tr64.

Nguồn QĐND: https://www.qdnd.vn/80-nam-cach-mang-thang-tam-va-quoc-khanh-2-9/xung-danh-quan-doi-anh-hung-cua-dan-toc-anh-hung-844317