Xây dựng các sản phẩm chủ lực, tạo đà cho nông nghiệp hàng hóa- Kỳ 2

BBK - Mặc dù tỉnh Bắc Kạn có nhiều sản phẩm đặc sản, đặc hữu như: Bí xanh, miến dong, hồng không hạt, chè, gạo Nhật, gạo nếp… nhưng việc tiêu thụ vẫn còn những bấp bênh, thiếu bền vững. Điều đó cho thấy việc liên kết trong sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm chính là chìa khóa để thúc đẩy nông nghiệp hàng hóa.

Các sản phẩm đặc sản nổi tiếng của Bắc Kạn.

Vụ mơ năm nay ở huyện Chợ Mới, người trồng không khỏi lo lắng khi chất lượng quả sụt giảm, kéo theo giá cả xuống thấp. Có thời điểm, giá mơ lùn chỉ còn 7.000 đồng/kg, loại mơ cao lên 13.000 đồng/kg, thấp gần một nửa so với cùng kỳ năm ngoái.

Ông Đặng Phúc Quang, xã Cao Kỳ (huyện Chợ Mới) khá hụt hẫng vì năm nay giá mơ giảm sâu.
Ông Đặng Phúc Quang, thôn Nà Nguộc, xã Cao Kỳ, huyện Chợ Mới có tới 2ha mơ, vườn cây lâu năm nhất cũng lên đến 20 năm tuổi. Vụ nào năng suất ông thu về khoảng 20 tấn quả, bỏ túi 200 triệu đồng, thế nhưng giá mơ năm nay lại xuống thấp khiến ông và nhiều hộ trồng mơ không khỏi hụt hẫng. Bởi với từng đó sản lượng nếu trừ chi phí thì bỏ túi không còn là bao.

HTX Đoàn Kết, xã Cao Kỳ, huyện Chợ Mới thu mua mơ cho bà con mỗi năm lên đến 1.000 tấn, HTX mong rằng bà con cần nâng cao khâu chăm sóc để đầu ra thuận lợi hơn.
Là đơn vị từng liên kết thu mua mơ cho bà con, năm nay Công ty Misaki (Khu công nghiệp Thanh Bình, huyện Chợ Mới) chỉ mua được gần 200 tấn mơ, thấp hơn một nửa so với những năm trước. Đại diện công ty cho biết nguyên nhân chính là do chất lượng quả mơ chưa đạt tiêu chuẩn chế biến.
Còn đối với HTX Đoàn Kết, một đơn vị tiêu thụ mơ mỗi vụ lên tới 1.000 tấn, bà Trịnh Thị Thư, Giám đốc HTX cho rằng chất lượng quả mơ năm nay thấp, hơn nữa lượng mơ trong dân quá lớn, đơn vị không thể bao tiêu được hết. Doanh nghiệp, HTX chỉ thu mua trong giới hạn nhất định, còn lại người dân bán ra ngoài với giá lên xuống thất thường.
Câu chuyện quả mơ cho thấy rõ một thực tế: Nếu không có sự chuẩn hóa trong sản xuất, không kiểm soát được chất lượng, thì việc liên kết cũng khó phát huy hiệu quả. Chưa kể diện tích mơ tại các xã như Cao Kỳ, Hòa Mục đang không ngừng được mở rộng, nên vai trò của doanh nghiệp và hợp tác xã, đặc biệt là sự vào cuộc của chính quyền trong việc cân bằng giữa việc sản xuất, tiêu thụ là rất cấp thiết.
Không chỉ mơ, mà nhiều loại cây ăn quả khác như cam, quýt cũng trong tình trạng tương tự. Bắc Kạn hiện có hơn 2.400ha cam, quýt, nhưng phần lớn sản phẩm vẫn tiêu thụ tự do ngoài thị trường. Giá cả luôn biến động, không theo quy luật cung cầu. Ngay cả những vùng trồng cam như Đồng Thắng (Chợ Đồn) dù đã được cấp mã số vùng trồng nhưng sản phẩm vẫn chủ yếu tiêu thụ nhỏ lẻ.

Sản lượng cam, quýt Bắc Kạn mỗi năm lên đến gần 25.000 tấn nhưng đầu ra vẫn còn bấp bênh, chưa có sự liên kết từ các doanh nghiệp.
Chưa có liên kết bền chặt, người dân luôn phải "đánh cược" với thị trường. Trồng nhiều thì sợ ế, trồng ít thì không đủ số lượng để tạo chuỗi sản phẩm mạnh. Nhiều HTX tuy đã hình thành nhưng vẫn loay hoay do thiếu vốn, thiếu nhân lực và chưa đủ sức mở rộng liên kết liên vùng. Một số doanh nghiệp cũng chưa mặn mà đầu tư vì sản xuất còn manh mún, phân tán, khó đảm bảo số lượng lớn và đồng đều. Điển hình như quả hồng không hạt Bắc Kạn, dù có những đơn vị đặt mua số lượng lớn, nhưng do không gom đủ hàng, bà con vẫn phải bán nhỏ lẻ ra ngoài.

Hiện nay, cùng với các chính sách khuyến khích phát triển kinh tế nông, lâm nghiệp, nhiều nơi đã bắt đầu xuất hiện những mô hình làm ăn bài bản, đem lại niềm tin cho người trồng. Điển hình như HTX Yến Dương (Ba Bể) mỗi năm bao tiêu thụ hàng nghìn tấn bí xanh cho bà con. Đồng thời phát triển các sản phẩm chế biến như trà bí, trà bí đạt chuẩn OCOP 4 sao- đã có mặt tại các siêu thị lớn và chuỗi cửa hàng OCOP uy tín. Hiện HTX đang liên kết với hơn 200 hộ dân để trồng 40ha bí.

Sản phẩm trà bí sấy khô của HTX Yến Dương.
Hay HTX Tài Hoan (Na Rì) hiện liên kết với hơn 700 hộ trồng dong riềng với sản lượng của thu mua, chế biến lên hơn 4.000 tấn củ. HTX đã đầu tư máy móc làm miến sạch, nâng cấp mẫu mã, bao bì, từng bước đưa sản phẩm vươn tới thị trường ngoài tỉnh, thậm chí xuất khẩu.

Vùng nguyên liệu dong riềng tại xã Côn Minh, huyện Na Rì phần lớn được các HTX, tổ chức, cá nhân liên kết bao tiêu ổn định.

Theo định hướng của ngành Nông nghiệp thì để xây dựng được các sản phẩm chủ lực, có thể cạnh tranh và nhân rộng những mô hình điển hình thì cần tiếp tục thực hiện tốt các chuỗi liên kết, từ đó tạo ra vùng nguyên liệu ổn định đầu vào. Chuẩn hóa trong khâu sản xuất, năng lực tổ chức, đầu tư máy móc, kho bãi, xây dựng thương hiệu. Nêu cao vai trò của chính quyền các cấp trong việc kêu gọi doanh nghiệp, kết nối thị trường, giúp người dân ký kết hợp đồng tiêu thụ rõ ràng, tránh tình trạng “được mùa – mất giá”. Còn với HTX, cần xem đây là “xương sống” trong tổ chức sản xuất, HTX đủ năng lực, thì mới liên kết, làm thương hiệu và bảo vệ quyền lợi cho người nông dân./.
(Còn nữa)