Vua Khang Hi vị minh quân bậc nhất lịch sử Trung Quốc
Vua Khang Hi bị cha ghẻ lạnh nhưng lại được bà nội cưng chiều hết mực. 8 tuổi, ông lên ngôi Hoàng đế và trở thành vị minh quân hiếm có của lịch sử Trung Hoa.
Hoàng đế Khang Hi tên thật là Ái Tân Giác La Huyền Diệp (1654 - 1722), là vị vua thứ 4 của nhà Thanh. Ông cai trị toàn cõi Trung Quốc từ năm 1662 đến khi qua đời.
Trong lịch sử Trung Hoa, Khang Hi nổi tiếng là vị minh quân hiếm có, biết chiêu mộ hiền tài, luôn lấy dân làm gốc, có tấm lòng bao dung, độ lượng và hết lòng vì việc nước nên ông đã khiến Trung Quốc trở thành quốc gia có diện tích lãnh thổ lớn nhất, dân cư đông đúc nhất, kinh tế giàu có nhất, văn hóa phồn thịnh nhất, thực lực quốc gia mạnh nhất trên thế giới thời điểm ấy. Ông đã kiến lập được một lãnh thổ rất thịnh suy gọi là "Khang Càn thịnh thế", và là một vị minh quân hiếm có từ xưa tới nay.
Ông cũng là vị hoàng đế thường xuyên cải trang làm dân thường để đi thị sát, tìm hiểu cuộc sống của dân. Vậy nên, người Trung Quốc hay có câu "Khang Hi vi hành" để nói về vị vua này. Câu chuyện vi hành của ông cũng là nguồn cảm hứng cho bộ phim nổi tiếng Trung Quốc một thời Khang Hi vi hành.
Đứa con bị cha ghẻ lạnh, bà nội nuôi dạy
Khang Hi là con trai của Thuận Trị Hoàng đế và Hiếu Khang Hoàng hậu. Mẹ của ông vốn họ Đông thị, về sau đổi thành Đông Giai thị, là con gái của một công thần. Cuộc hôn nhân của Hoàng đế và Đông thị vốn chỉ là cuộc hôn nhân chính trị được sắp đặt, nên mẹ của Khang Hi không được vua sủng ái. Vậy nên, Thuận Trị Hoàng đế cũng không mặn mà gì với Huyền Diệp.
Tuy nhiên, bà nội của Khang Hi là Hiếu Trang Hoàng thái hậu lại cực kỳ cưng chiều cháu. Khi Huyền Diệp lên 8 tuổi, Thuận Trị Hoàng đế qua đời. Ông được bà nội nuôi nấng và sắp đặt để kế thừa ngai vàng.
Dù tuổi còn nhỏ lại được bà nội cưng chiều, nhưng Huyền Diệp tỏ ra là một đứa trẻ ngoan ngoãn, thông minh và ham học hỏi. Theo Wikipedia, nhà Hán học Herbert Giles ghi chép rằng, Huyền Diệp là một cậu bé có thân hình cân đối, đôi mắt to lanh lợi và yêu thích các môn thể dục, thường dành 3 tháng mỗi năm để đi săn bắn. Tuy nhiên trong mắt Huyền Diệp có vài đốm nhỏ là di chứng của bệnh đậu mùa mà ông mắc khi 5 tuổi.
Ngày 7/2/1662, dù mới tròn 8 tuổi nhưng Huyền Diệp đã lên ngôi, lấy niên hiệu là Khang Hi. Hiếu Trang Hoàng thái hậu được tôn làm Thái hoàng thái hậu, giúp đỡ vị vua nhỏ tuổi cùng 4 đại thần là Sách Ni, Tô Khắc Táp Cáp, Át Tất Long và Ngao Bái giải quyết chuyện triều chính.
Dẹp loạn gian thần
Nổi tiếng là vị vua anh minh, có công lớn trong lịch sử Trung Hoa, Khang Hi Đế không chỉ chiếm được lòng dân mà còn giúp dẹp loạn, thống nhất và duy trì sự cường thịnh cho Đế quốc Đại Thanh.
Bởi lên ngôi từ lúc còn quá nhỏ nên Khang Hi Đế không được lòng tất cả các đại thần, ngay cả 4 vị quan hầu cận ngay bên cạnh ông. Đặc biệt Ngao Bái là quan thần tỏ rõ thái độ hống hách, không phục Hoàng đế và lôi Át Tất Long về phe cánh của mình.
Sách Ni tuổi cao sức yếu, gần như không thể phò tá gì cho vị vua nhỏ tuổi. Chỉ có duy nhất Tô Khắc Táp Cáp là trung thần, tính tình cương trực. Dù phản đối Ngao Bái nhưng xét về thế lực, vị quan này yếu thế hơn hẳn.
Ở thời điểm Khang Hi lên ngôi, Trung Hoa còn tồn đọng nhiều vấn đề bất cập: dân chúng lầm than lại bất mãn với triều đình, thù trong giặc ngoài, đất nước còn bị chia cắt. Vậy nên, việc các quan thần chia bè kéo cánh kết hợp với khó khăn ngoài triều chính khiến cho trách nhiệm càng lớn lao đè nén lên ngai vàng của vị vua nhỏ tuổi.
Tuy nhiên, nhờ sự hậu thuẫn vững chắc của Thái hoàng thái hậu, Khang Hi từng bước chậm mà chắc vừa học hỏi lại vừa tiếp quản vương triều một cách chắc chắn.
Trước thế sự nước nhà, Hoàng thái hậu Hiếu Trang hỏi cháu nghĩ gì, vua Khang Hi trả lời: "Duy nhân giả vô địch" (nghĩa là: "Chỉ có người nhân từ mới không có kẻ địch"). Vậy nên, ông cai quản nước nhà với một tấm lòng bao dung, độ lượng.
Trước các quan thần, ông nói: "Định loạn chi phương, duy sùng thượng khoan đại, khoan tắc đắc chúng. Trì thiên hạ chi đạo, dĩ khoan vi bản" (nghĩa là: "Để dẹp loạn, chỉ có duy trì lòng khoan dung, tấm lòng rộng rãi ắt được lòng dân. Đạo lý trị vì thiên hạ, lấy khoan dung làm căn bản").
Năm 1666, Ngao Bái tìm mọi cách trừ khử các quan thần phản đối hắn bên cạnh vua. Sau khi đạt được mục đích, hắn ngày càng lộng hành, không coi vua ra gì. Quá phẫn nộ với hành động ngang ngược của Ngao Bái, năm 1667, Khang Hi muốn trừ bỏ gian thần để dẹp loạn triều chính trước tiên. Tuy nhiên, bè cánh của Ngao Bái quá đông, Khang Hi Đế phải nghĩ cách dẹp loạn từ từ.
Mất 2 năm sau đó, đến năm 1669, Ngao Bái bị vạch trần tội ác và tống giam trong ngục. Ít lâu sau, tên gian thần này chết trong ngục tối. Từ đó, Khang Hi chính thức tự quyết chuyện triều chính.
Thống nhất Mãn - Hán
Trong suốt triều đại nhà Thanh (1644-1912), Trung Hoa nằm dưới quyền cai trị của người Mãn Châu đến từ phương Bắc. Nội bộ Trung Hoa luôn có sự xung đột sắc tộc giữa người Hán và người Mãn.
Khang Hi Đế là người đã nhận ra để củng cố quyền lực và sự lớn mạnh của nước nhà, cần phải thống nhất các dân tộc lại với nhau. Vậy nên, trước mọi quan lại trong triều, Khang Hi Đế luôn nhấn mạnh: "Mãn hay Hán đều là bề tôi của trẫm. Mãn Hán là một thể thống nhất".
Theo sử sách, lãnh thổ Trung Quốc được mở rộng rất nhiều dưới thời Khang Hi. "Từ trước đến thời Khang Hi, Trung Quốc chưa từng có thời kỳ nào lãnh thổ rộng lớn, thống nhất, đa sắc tộc và được quản lý hiệu quả, lâu dài như vậy", Wikipedia viết.
Năm 1720, vào ngày sinh nhật thứ 66 của Khang Hi Đế, triều đình mở đại yến tiệc kéo dài 3 ngày nhằm ăn mừng kỷ niệm Mãn Hán thống nhất. Bữa tiệc này còn được gọi là "Mãn Hán toàn tịch" nổi tiếng trong lịch sử Trung Hoa.
Lấy dân làm gốc, chiêu mộ hiền tài
Khang Hi lấy dân làm gốc. Trong những năm tháng trị vì đất nước, ông luôn thương yêu dân, vì dân, quan sát lòng dân, làm phúc cho dân ở khắp mọi nơi. Khang Hi chú trọng khôi phục và phát triển sản xuất, cùng dân nghỉ ngơi dưỡng sức. Nhiều lần ông hạ lệnh đình chỉ việc khoanh vùng lãnh thổ, bãi bỏ thuế ruộng hơn 545 lượt, kế ngân 1.500.000 lạng bạc. Ông tuyên bố: "Sinh thêm nhân khẩu, vĩnh viễn không tăng thêm thuế", khiến thuế nhân khẩu cả nước giảm xuống, đỡ gánh nặng cho nông dân. Ông coi trọng quản lý sông Hoàng Hà, tự mình giám sát việc trị thủy suốt hơn 10 năm để nhân dân đỡ khổ vì nạn lũ lụt.
Lúc ấy, cửa Bắc Trường Thành bị nghiêng lún rất nhiều, công bộ và nha môn xin xây dựng tu bổ lại. Khang Hi nói với các đại học sỹ: "Việc Đế vương trị vì thiên hạ đều là có căn nguyên của nó, không phụ thuộc vào việc thành quách hiểm. Từ khi nhà Tần xây dựng Trường Thành tới nay, các triều Hán, Đường, Tống cũng đã thường sửa chữa, lúc ấy thật sự không gặp tai họa biên cương nào nữa sao? Cuối đời nhà Minh, đại quân của Thái Tổ tiến quân thần tốc, tỏa đi mọi hướng, đều không có ai dám đương đầu. Có thể thấy rằng đạo lý giữ nước, chỉ có tu đức an dân, hợp lòng dân mới chắc chắn giữ được đất nước, vùng biên cương tự nhiên vững chắc, đây cũng là điều mà người ta gọi là mọi người đồng tâm hiệp lực thì sức mạnh sẽ như bức tường đồng không thể phá."
Một lần, Khang Hi đang đi thị sát ở khu vực phía Bắc Trường Thành, ông phát hiện thấy một người nằm bất động bên đường. Ông tự mình tiến đến hỏi thăm, biết người này tên là Vương Tứ Hải, là một người làm thuê, trên đường về nhà bị đói quỵ xuống không dậy nổi. Khang Hi lập tức sai người cho ông ta ăn chút cháo nóng. Khi Vương Tứ Hải tỉnh dậy, hoàng đế mang ông ta về hành cung, rồi cho tiền lộ phí và phái người đưa ông ta về tận nhà.
Khang Hi thi hành rộng rãi chính sách loại bỏ, giảm bớt hình phạt. Năm thứ 22 thời Khang Hi, toàn bộ số phạm nhân bị phán quyết án tử hình trong cả nước chỉ có chưa đến 40 người.
Khang Hi không những quan tâm chăm sóc trăm họ, mà còn yêu cầu quan lại cũng phải yêu thương dân như con. Ông mặc dù không hạn chế trong việc tuyển chọn nhân tài, nhưng tiêu chuẩn để lựa chọn thì yêu cầu hết sức nghiêm ngặt. Ông dùng người trước sau đều giữ vững một tiêu chuẩn là: "Quốc gia dùng người, lấy đức làm gốc, tài nghệ là thứ yếu". "Tài đức đều cao thì tốt, nếu có tài mà không có đức, thì cũng không bằng người có đức mà không có tài". Ông còn nói: "Xét tài năng thì phải lấy đức làm căn bản, đức hơn tài thì là người quân tử, tài hơn đức là kẻ tiểu nhân".
Để trấn an quan lại dân tộc Hán, Khang Hi đã nhiều lần lặp đi lặp lại "Mãn hay Hán đều là bề tôi của trẫm", "Mãn Hán là một thể thống nhất", "Quan lại lớn nhỏ trong triều đều là những người mà trẫm tín nhiệm, các quan đều cần phải khuyên can, dâng sớ, không được thoái thác trách nhiệm". Một số ít trí thức ẩn cư trong rừng núi đã ra làm quan, sự ngăn cách giữa dân tộc Mãn với dân tộc Hán và các dân tộc khác dần dần tan biến, rồi cuối cùng dung hợp với nhau.
Để hình thành nên nếp sống tốt đẹp và thanh liêm cho quan lại, Khang Hi nhiều lần hạ chiếu để cho các quan lại triều đình tiến cử quan thanh liêm. Ông cũng nhiều lần đích thân tuyên dương những vị quan lại thanh liêm. Quan thanh liêm dưới triều đại Khang Hi xuất hiện rất nhiều, như: Lý Quang Địa, Trương Bá Hành…Những vị quan này nhậm chức ở nơi nào, thì dân chúng ở nơi ấy được hưởng ân huệ, lợi ích.
Vu Thành Long ở Sơn Tây tuy làm quan tướng soái, nhưng không hề mưu cầu tư lợi cho bản thân. Mỗi ngày 2 bữa, ông chỉ ăn cơm thô và rau xanh nên được mọi người đặt cho biệt hiệu là "Vu rau xanh". Ông lấy mình làm gương, ra mệnh lệnh cấm quan lại đút lót và nhận hối lộ, được dân chúng rất ủng hộ và yêu mến. Khi ông qua đời, các vị tướng quân và quan lại dưới quyền ông đến phúng viếng, họ mới thấy trong cái hòm bằng trúc để trong nhà ông chỉ có một chiếc áo dài, đầu giường của ông chỉ có một ít muối ăn, ai nấy đều cảm động rơi nước mắt. Dân chúng nhà nhà đều treo bức họa chân dung của ông và tưởng nhớ về ông, Khang Hi cũng ca ngợi ông là "Đệ nhất thanh quan đương thời".
Khang Hi vô cùng chú ý nghiêm trị tham quan. Ông nói, quan tham cần phải bị trừng trị nghiêm khắc hơn những cái khác, tội của tham quan là tuyệt đối không thể tha thứ được, nếu không sẽ không có tác dụng răn đe. Trong một lần thẩm tra, ông tự mình răn đe cảnh cáo một loạt các tội phạm tham ô lớn. Đối với các quan lại vùng biên giới, ông yêu cầu càng nghiêm khắc hơn. Ví dụ quan Tuần phủ Thiểm Tây tên là Mục Nhĩ Tái ăn hối lộ làm trái pháp luật, Khang Hi nói: Đối với tội phạm quan trọng rõ ràng nhơ nhuốc như thế, nếu không dùng hình phạt nặng thì không thể được, cho nên lập tức xử tử. Từ năm 1681 kéo dài trong suốt 25 năm, chính sách này đã có tác dụng rất lớn trong việc ngăn chặn những hành vi tham ô hối lộ.
Trong việc thống nhất đất nước, trị quốc bình thiên hạ, hoàng đế Khang Hi được người đời ca ngợi là một vị minh quân hiếm có trong lịch sử Trung Hoa, luôn một lòng vì dân, nghĩ đến dân, lo cho lợi ích của dân, không mảy may tư lợi, hưởng thụ bản thân. Ông là tấm gương sáng mà người đời thường lấy ra để học tập.