Việt Nam cần quyết liệt hơn trong bảo tồn đa dạng sinh học

Việt Nam là một trong 16 quốc gia có mức độ đa dạng sinh học cao nhất hành tinh, đang đứng trước yêu cầu cấp thiết cần hành động cụ thể, quyết liệt hơn để bảo tồn thiên nhiên và phát triển bền vững.

Sống hài hòa với thiên nhiên: Việt Nam cần hành động thực chất hơn để bảo tồn đa dạng sinh học.

Sống hài hòa với thiên nhiên: Việt Nam cần hành động thực chất hơn để bảo tồn đa dạng sinh học.

Theo các nghiên cứu gần đây, hơn một phần ba số loài động vật có vú tại Việt Nam đang đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng. Các hoạt động của con người như phá rừng, khai thác quá mức và hủy hoại môi trường sống tiếp tục là nguyên nhân chính gây mất đa dạng sinh học. Những mối đe dọa này không chỉ ảnh hưởng tới hệ sinh thái, mà còn trực tiếp đe dọa an ninh lương thực, sinh kế và sức khỏe của cộng đồng.

Tại sự kiện kỷ niệm Ngày Quốc tế về Đa dạng sinh học năm 2025 do Bộ Nông nghiệp và Môi trường (NN&MT) phối hợp cùng Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP), Tổ chức Hợp tác Quốc tế Đức (GIZ) và UBND tỉnh Ninh Bình tổ chức vào ngày 22/5, ông Patrick Haverman, Phó Trưởng đại diện UNDP tại Việt Nam, nhấn mạnh: “Việt Nam là quốc gia có tính đa dạng sinh học cao bậc nhất thế giới, song nguồn tài nguyên này đang đứng trước nguy cơ suy thoái nghiêm trọng.”

Ông Haverman khẳng định: “Mất đa dạng sinh học không còn là vấn đề của riêng quốc gia nào mà là một cuộc khủng hoảng toàn cầu.”

Việt Nam đã chính thức tham gia Công ước Đa dạng sinh học từ năm 1994 và hiện đang nỗ lực thực thi Khung Đa dạng sinh học toàn cầu được thông qua tại Hội nghị COP15 vào cuối năm 2022. Khung hành động này đặt ra 23 mục tiêu cần đạt được vào năm 2030, bao gồm bảo vệ 30% diện tích đất liền và biển, cũng như phục hồi các hệ sinh thái bị suy thoái.

Tại Việt Nam, các hành động cụ thể đang được triển khai như mở rộng hệ thống khu bảo tồn biển, phục hồi rừng ngập mặn, và tích hợp mục tiêu bảo tồn vào quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Chiến lược quốc gia về đa dạng sinh học đang đóng vai trò làm cầu nối giữa cam kết toàn cầu và hành động nội địa.

Từ bảo tồn sang phát triển: Thiên nhiên là trụ cột

Việt Nam hiện có hơn 13,9 triệu ha rừng, đạt tỷ lệ che phủ 42,02%, trong đó gần 10,2 triệu ha là rừng tự nhiên. Ngoài ra, nước ta đã thiết lập 178 khu bảo tồn thiên nhiên, 11 khu Dự trữ sinh quyển thế giới, cùng nhiều danh hiệu quốc tế khác như Di sản thiên nhiên, Vườn di sản ASEAN, Khu Ramsar.

Theo đại diện UNDP, để thực sự chuyển đổi, cần xem thiên nhiên là “nguồn vốn phát triển”, không phải rào cản. Việc tích hợp bảo tồn vào các ngành như hạ tầng, nông nghiệp, năng lượng là yếu tố then chốt giúp giảm rủi ro môi trường và chi phí dài hạn.

UNDP cam kết hỗ trợ Việt Nam xây dựng hệ thống đánh giá và giám sát dịch vụ hệ sinh thái nhằm đảm bảo rằng tăng trưởng kinh tế không phải trả giá bằng tổn thất tài nguyên tự nhiên.

Ông Haverman cũng nhấn mạnh việc cần thiết thúc đẩy các cơ chế tài chính đổi mới để phục vụ bảo tồn. “Tài chính xanh, du lịch sinh thái, tín dụng carbon, trái phiếu xanh và chi trả dịch vụ hệ sinh thái là những công cụ mạnh mẽ cần được phát huy,” ông nói.

Đại diện UNDP cũng nêu đề xuất, Chính phủ Việt Nam đẩy nhanh phê duyệt và giải ngân các dự án ODA đang bị chậm trễ – một nguồn lực thiết yếu cho các chương trình phục hồi hệ sinh thái và ứng phó biến đổi khí hậu.

Cộng đồng địa phương, đặc biệt là phụ nữ, người dân tộc thiểu số và thanh niên, cần được trao quyền để tham gia quản lý tài nguyên. “Họ không chỉ là đối tượng bị ảnh hưởng mà còn là những người bảo vệ tự nhiên hiệu quả nhất,” ông Haverman nhấn mạnh. Việc kết hợp tri thức bản địa với các mô hình đồng quản lý sẽ góp phần đảm bảo tính bao trùm và công bằng trong công tác bảo tồn.

Ngọc Linh

Nguồn Mekong Asean: https://mekongasean.vn/viet-nam-can-quyet-liet-hon-trong-bao-ton-da-dang-sinh-hoc-41812.html