Trưởng lão Hòa thượng Thích Nhật Quang: 'Niềm vui lớn mỗi dịp Tết đến là được về non thăm Thầy'
Vào đầu thập niên 1970, một bước ngoặt lớn cho đời tu của tôi, quảy gói lên non học thiền. Những ngày tháng ấy, cửa sài khép kín, tôi cùng các huynh đệ đồng môn làm sơn tăng vô sự. Chúng tôi ngày ngày học kinh, tọa thiền, sám hối.
Tôi còn nhớ ngoài cổng Chơn Không có treo một cái dây chuông để khách đến thăm gọi cổng. Những khi ấy, thầy tri khách sẽ ra tiếp, hỏi thăm; có khi hỏi han tường tận rồi vẫn không cho vào. Hoặc có cho vào, thì chúng tôi cũng chỉ được tiếp đúng 15 phút theo tiếng báo của chuông đồng hồ như thanh quy của viện.
Nhưng những tháng ngày thong dong, vui chốn sơn môn ấy chẳng bao lâu thì tôi lại vâng lời Thầy xuống núi. Theo giáo huấn của Thầy, tôi cùng các huynh đệ về mảnh đất Long Thành này để cùng nhau tu học.
Ngày mới xuống Thường Chiếu, mùi nắng khét lẹt, anh em có mấy người mà đất đai cằn cỗi, đèn đuốc tối thui, lấy nắng gió là nhà, trăng sao là bạn. Chúng tôi phải làm những người nông phu bất đắc dĩ, cuốc đất làm ruộng, trồng rau, ngày đẩy xe đi hốt phân bò, phân heo… làm đủ mọi việc cực nhọc; chỉ ăn cơm độn, rau khoai đạm bạc qua ngày. Nhưng nghe lời Thầy bảo làm, bảo sống, nên tôi yên lòng cứ sống, cứ tu tập.
Niềm vui lớn của chúng tôi thuở ấy mỗi dịp Tết đến là được về non thăm Thầy. Đường lên non mai vàng rực lối, bóng y vàng giữa núi rừng xanh thẳm, chúng tôi quây quần bên Thầy, đảnh lễ và kể cả vòi vĩnh lì xì, rồi ngồi yên để được lắng nghe Thầy chỉ dạy.
Tôi nhớ năm đầu đón Tết ở Thường Chiếu. Lúc ấy có những vị cất am, thất tạm ở quanh đây để nương theo Hòa thượng tôn sư tu học. Chúng tôi nghèo, họ cũng không hơn; chúng tôi không có gì, họ cũng vậy. Nhưng nhiều người chung lại, người lon nếp, người lon đậu,… cuối cũng có được nồi bánh tét sum vầy bên mái chùa tạm dưới cây Bồ-đề, cùng ca vang khúc hát “Một ngày không làm là một ngày không ăn…”. Một niềm vui hết sức bình dị, đơn sơ.
Nhưng niềm vui lớn của chúng tôi thuở ấy mỗi dịp Tết đến là được về non thăm Thầy. Đường lên non mai vàng rực lối, bóng y vàng giữa núi rừng xanh thẳm, chúng tôi quây quần bên Thầy, đảnh lễ và kể cả vòi vĩnh lì xì, rồi ngồi yên để được lắng nghe Thầy chỉ dạy.
Từ năm 1980, đời sống thiền viện dần được hanh thông. Cho đến năm 1986, Hòa thượng chính thức xuống núi, bắt đầu khai pháp tại Thường Chiếu, Tăng Ni, Phật tử tụ hội về đây tu học, ngày một đông hơn, khi đó nơi đây mới thật sự có “mùa xuân”, bởi lẽ, Thầy là “linh hồn” của Tăng Ni, Phật tử thiền phái.
Tôi vẫn nhớ lời dạy của Hòa thượng tôn sư: “Cho dù ở đâu, trong hoàn cảnh nào, việc tu hành của mình mới là gốc, còn lại đều là nhân duyên. Thấu hiểu được điều này, mình sẽ tự tại". Ngày nay, Thường Chiếu phát triển nhiều về mặt hình thức, Tăng chúng cũng đông hơn. Nhưng tôi vẫn nhắc các huynh đệ, điều quan trọng nhất là phải kiến tạo và phát huy được ‘ngôi chùa tâm linh’ ở bên trong mỗi chúng ta, đó mới là đạo nghiệp chân chánh của người tu, đó mới thật sự là mùa xuân miên viễn.