Trích hồi ký 'Chuyện nghề phán xử': Bản báo cáo ghi 'Kính gửi' nhưng không gửi…

Dù ghi là kính gửi, nhưng tôi không gửi đi đâu mà bỏ vào trong hồ sơ vụ án. Tại sao tôi lại làm một chuyện ngược đời như vậy?...

Chỉ ít ngày nữa thôi, sau hơn 10 năm nghỉ hưu, nguyên Phó Chánh án TAND Tối cao Tưởng Duy Lượng sẽ ra mắt độc giả cuốn hồi ký “Chuyện nghề phán xử”.

Được sự đồng ý của tác giả, PLO xin trích đăng một câu chuyện nằm trong cuốn hồi ký, với tựa đề:

Bản báo cáo ghi: "Kính gửi" nhưng không gửi…

***

Tại giai đoạn xét xử sơ thẩm, TAND tỉnh xác định đây là vụ án điểm của địa phương. Bị cáo là một nông dân, nhiều lần không nộp sản phẩm theo nghĩa vụ, đã bị thu hồi một phần ruộng. Năm ấy cũng vậy, bị cáo không tự giác thực hiện nghĩa vụ, chính quyền địa phương, hợp tác xã đã thành lập một tổ công tác chuyên đi đôn đốc thu sản phẩm. Vốn đã có mâu thuẫn âm ỉ, căng thẳng từ lâu, hôm tổ công tác đến nhà, bị cáo đã vác súng nhằm vào tổ công tác siết cò, làm bị thương 3 người. Bị cáo bị truy tố về tội “giết người” với nhiều tình tiết tăng nặng, đã bị tòa sơ thẩm xử phạt với mức hình phạt cao nhất: tử hình.

Tôi được phân công xét xử một số vụ, trong đó có vụ này. Khi nghiên cứu hồ sơ, biết đây là vụ án điểm của địa phương, đối với những vụ án thuộc dạng này, quy trình thông thường là Tỉnh ủy sẽ nghe báo cáo và có ý kiến chỉ đạo. Trong nhiều trường hợp (không phải tất cả) còn báo cáo lãnh đạo TAND Tối cao.

Khi ấy, lãnh đạo Tòa Hình sự, đồng chí Phó Chánh án phụ trách Tòa Hình sự có ý kiến góp ý về tội danh, hình phạt. Về nguyên tắc và theo luật, quyền quyết định vẫn thuộc về Hội đồng xét xử. Đối với Tòa Phúc thẩm TAND Tối cao, ở thời điểm đó (sở dĩ tôi phải nói ở thời điểm đó là theo thời gian luôn có sự khác nhau, theo cách nói dân gian “mỗi thời mỗi khác”), chủ tọa nghiên cứu hồ sơ thấy có vướng mắc gì, trao đổi trong Hội đồng xét xử nhằm nâng cao chất lượng xét xử.

Nghiên cứu vụ án này tôi nhận thấy, Tòa án cấp sơ thẩm đã xử đúng tội danh, áp dụng đúng điều luật, các tình tiết tăng nặng. Chỉ có tình tiết giảm nhẹ là tôi có cách nhìn khác với Tòa án cấp sơ thẩm một chút. Đó là, cần nhìn nhận cho đúng những thiếu sót của chính quyền cơ sở và Hợp tác xã khi đi thu hồi sản phẩm của xã viên theo nghĩa vụ. Từ đó, tôi cho rằng, dù bị cáo phạm tội với tình tiết tăng nặng “giết người trong khi thi hành công vụ”, “giết nhiều người”, nhưng may mà hậu quả chết người chưa xảy ra (không có ai chết, bị thương ba người), cùng với tình tiết giảm nhẹ là thiếu sót của cơ sở trong quá trình xử lý (thu bớt ruộng…) làm cho bị cáo với nhận thức chưa đúng, bức xúc nên đã manh động. Trong quá trình điều tra, xét xử bị cáo khai báo thành khẩn, nhận ra sai lầm của mình, do đó tôi cho rằng cần giảm án cho bị cáo.

Trước ngày đi xét xử, tôi có trao đổi với hai Thẩm phán trong Hội đồng là ông Tạ Đăng Khoa - Phó Chánh tòa Tòa phúc thẩm, quê tỉnh Bắc Ninh; ông Nguyễn Quang Minh - Thẩm phán quê ở tỉnh Thái Bình. Tôi cho rằng nếu nghiêm khắc cũng chỉ xử bị cáo với mức án tù chung thân. Do không thống nhất được, Hội đồng xét xử báo cáo ông Trần Huy Lục - Chánh tòa Tòa phúc thẩm TAND Tối cao tại Hà Nội. Cả ba thành viên Hội đồng xét xử vụ án này đều nêu quan điểm của mình, Chánh tòa kết luận y án sơ thẩm. Thấy vậy tôi nói: Nếu lãnh đạo tòa yêu cầu với tư cách Đảng viên phải chấp hành thì tôi sẽ chấp hành, nhưng tôi vẫn bảo lưu quan điểm nếu diễn biến phiên tòa không có gì mới so với hồ sơ.

Sau một lúc suy nghĩ, Chánh tòa nói: Ra phiên tòa tùy tình hình Hội đồng quyết định.

Tôi rất phục Chánh tòa, một người có nhiều kinh nghiệm đã dũng cảm đưa ra kết luận này. Kết luận đó chứa đựng ba khía cạnh: một là, Chánh tòa là người có bản lĩnh, dám chịu trách nhiệm; hai là, kết luận đó rất đúng luật và vì nó đúng luật nên dẫn đến khía cạnh thứ 3, Hội đồng xét xử phải là người chịu trách nhiệm với phán quyết của mình, như luật đã quy định “Thẩm phán giải quyết vụ án độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”.

Nếu bạn đọc tinh ý, khi đọc đến hai khía cạnh ở dưới sẽ nghĩ “kết luận đúng luật thì có gì gọi là dũng cảm, có bản lĩnh, có gì đó mâu thuẫn”. Nhìn bên ngoài đúng là có mâu thuẫn nhưng thực tế phong phú hơn nhiều. Nếu không tại sao sau kết luận của Chánh tòa, lúc đầu tôi phải nói vậy?

Khi về địa phương, Hội đồng xét xử đã làm việc với lãnh đạo Tòa án địa phương gồm có Chánh án và các Phó Chánh án. Thời điểm đó ông Nguyễn Văn S là Chánh án TAND tỉnh, sau này là Thứ trưởng Bộ Tư pháp. Khi trao đổi giữa các thành viên Hội đồng với lãnh đạo địa phương, hai thành viên trong Hội đồng xét xử phúc thẩm vẫn giữ quan điểm y án sơ thẩm. Tôi nói: Qua trao đổi, tôi thấy không có tình tiết hay sự kiện nào khác so với hồ sơ. Tôi đề nghị lãnh đạo TAND tỉnh báo cáo với Tỉnh ủy sắp xếp cho Hội đồng làm việc với Tỉnh ủy.

 Bìa cuốn hồi ký "Chuyện nghề phán xử".

Bìa cuốn hồi ký "Chuyện nghề phán xử".

Giáp ngày xử, tôi được thông báo, Tỉnh ủy không sắp xếp được thời gian. Cho đến giờ này, tôi vẫn nghĩ lãnh đạo TAND tỉnh không báo cáo Tỉnh ủy theo đề nghị của tôi.

Tôi phán đoán như vậy, dựa trên ba cơ sở, một là vụ án này là vụ án điểm, địa phương không muốn bản án bị thay đổi.

Hai là trong Hội đồng xét xử ngoài tôi là chủ tọa, còn có hai Thẩm phán khác có quan điểm y án sơ thẩm, thì dù ra phiên tòa tôi có giữ quan điểm là sửa bản án sơ thẩm, xử bị cáo với mức án tù chung thân thì cũng không làm được, vì theo luật tôi phải tuyên theo đa số. Có lẽ, đây là cơ sở quan trọng nhất có ý nghĩa chi phối trong hành động.

Ba là có thể khi không làm việc được với cấp ủy địa phương, mà đây lại là án điểm, tôi phải hoãn phiên tòa. Chính vì thời điểm đó nghĩ như vậy, khi được thông báo Tỉnh ủy không sắp được lịch làm việc với Hội đồng xét xử, tôi trả lời ngay “tôi không hoãn phiên tòa, tùy thuộc diễn biến tại phiên tòa sẽ quyết định”. Tôi đã thực hiện đúng như vậy.

Cơ sở thứ 3 này chỉ là suy nghĩ của tôi khi đó, đúng là suy nghĩ của tuổi trẻ, chứ giờ có thời gian suy xét lại mới nhận ra chắc chắn lãnh đạo Tòa án địa phương không nghĩ vậy. Bởi lý do: Các vị lãnh đạo này đều dày dạn kinh nghiệm, thừa hiểu Hội đồng xét xử có ba người, thì hai người trong đó có một lãnh đạo Tòa phúc thẩm đã nhất trí với đường lối trong bản án sơ thẩm, nên tôi sẽ không thể thay đổi được phán quyết của Tòa án cấp sơ thẩm.

Có điều các lãnh đạo Tòa án địa phương không thể biết rằng, nếu buộc phải tuyên theo đa số, y bản án sơ thẩm, tôi vẫn có phương án để quan điểm của tôi được xem xét, làm rõ sự đúng sai của phán quyết, bảo đảm sự công bằng.

Trong quá trình xét xử, tôi đã cố gắng làm rõ tất cả các khía cạnh, nhằm kiểm tra xem có thêm tình tiết nào mới không, có cơ sở để y án hay sửa bản án sơ thẩm. Sau khi kết thúc phần thẩm vấn, tranh luận và bị cáo nói lời sau cùng, Hội đồng vào nghị án, tôi nói:

- Hội đồng xét xử đã làm rõ và không có gì khác so với tài liệu, chứng cứ đã có trong hồ sơ, do đó tôi không thay đổi quan điểm, cần giảm án cho bị cáo. Tôi chỉ ra các căn cứ cho việc giảm án.

Tôi ghi hết ý kiến của tôi trong biên bản nghị án, sau đó ông Minh phát biểu: Bị cáo phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng, đây là vụ án điểm nên y án sơ thẩm.

Ông Khoa phát biểu sau cùng, ông nói dài và tôi ghi đầy đủ vào biên bản nghị án. Ở đây tôi xin tóm gọn nội dung quan trọng nhất là “việc xử tử hình bị cáo là có phần nghiêm khắc quá, nhưng là án điểm cần y án sơ thẩm”. Vì có quan điểm khác nhau, tôi thấy ông Khoa đã thay đổi khi đánh giá về vụ án. Tôi ghi đầy đủ ý kiến của cả ba người (ghi chi tiết) chứ không ghi tóm tắt như trường hợp cả ba Thẩm phán đều nhất trí. Cả ba Thẩm phán đều ký vào biên bản nghị án như thường lệ. Tôi ra tuyên bản án theo ý kiến của đa số trong Hội đồng.

Những người dự phiên tòa hôm ấy, bị cáo, kể cả Kiểm sát viên tại phiên tòa cũng không ai biết là bản án đó được tuyên theo đa số, không phải là quan điểm của chủ tọa phiên tòa.

Sau khi kết thúc đợt xét xử về cơ quan, tôi viết và hoàn thiện báo cáo với tiêu đề “Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Độc lập, tự do, hạnh phúc. Kính gửi: Chủ tịch nước, đồng kính gửi: Chánh án TAND Tối cao”. Trong đó nêu rõ quan điểm của tôi, các căn cứ cần giảm án, chỉ xử bị cáo với mức án chung thân.

Dù ghi là kính gửi, nhưng tôi không gửi đi đâu mà bỏ vào trong hồ sơ vụ án. Tại sao tôi lại làm một chuyện ngược đời như vậy?

Lý do thật đơn giản bởi thời điểm ấy so với các bậc cao niên, lứa tuổi như chúng tôi, được coi là trẻ, khi ở địa phương chưa hiểu hết mọi điều, nghĩ gì nói thật hết, vì thế cũng được “đội” khá nhiều “mũ”. Rút kinh nghiệm, khi trở thành Thẩm phán TAND tối cao tôi phải thận trọng hơn. Những lần họp kiểm điểm cuối năm, có một vị cao niên vẫn hay nhắc đề phòng tự kiêu, tự phụ… do đó, nếu tôi gửi bản báo cáo đi chắc không ít người suy diễn không hay.

Tôi biết rất rõ quy trình khi bản án tuyên bị cáo với mức hình phạt cao nhất là tử hình có hiệu lực pháp luật, hồ sơ vụ án sẽ được Thẩm tra viên nghiên cứu, báo cáo Chánh án TAND Tối cao xem xét để báo cáo Chủ tịch nước có nên ân giảm cho bị cáo hay không. Đây là đặc quyền mà luật trao cho Chủ tịch nước. Chánh án sẽ đọc văn bản của tôi, không cần gửi đi đâu cho phức tạp. Nếu Chánh án TAND Tối cao không đồng ý với quan điểm của tôi, thì Chủ tịch nước cũng sẽ biết được bản báo cáo ghi “Kính gửi” mà không gửi. Cuối cùng, giải pháp của tôi đã có hiệu quả, tôi nghe nói Chánh án TAND Tối cao ký kháng nghị bản án phúc thẩm. Sau đó, vụ án được đưa ra xét xử lại và chỉ xử phạt bị cáo với mức án tù chung thân.

Từ vụ này, có thêm một minh chứng là “án bỏ túi” có hay không xôn xao một thời. Án “bỏ túi” hay “không bỏ túi” phụ thuộc vào bản lĩnh Thẩm phán và có trách nhiệm của một vài Chánh án địa phương, đồng thời trong đó cũng có thể chứa đựng yếu tố cá nhân.

Mặt khác, vụ án cũng làm sáng tỏ một điều mà người ngoài hệ thống Tòa án đôi khi hiểu không đúng về báo cáo án, cứ nghĩ rằng Thẩm phán hay Hội đồng xét xử mất quyền độc lập khi xét xử.

Đối với những vụ việc phức tạp việc báo cáo là tranh thủ trí tuệ tập thể, xem xét một cách đa chiều nhằm giúp cho việc xét xử được đúng pháp luật. Dù có báo cáo nhưng khi quyết định vẫn phải theo diễn biến phiên tòa để ra phán quyết. Thẩm phán hay Hội đồng xét xử nào không làm được như vậy có một phần lỗi do thẩm phán, Hội đồng xét xử đó còn thiếu bản lĩnh nghề nghiệp. Tuy nhiên, tôi cũng hiểu thực tế có lãnh đạo tòa án địa phương độc đoán, áp đặt nên cũng chia sẻ với các Thẩm phán chủ tọa phiên tòa trong những trường hợp đó.

Sau này, trong các chuyến công tác, tôi đã từng ít nhiều có dịp trao đổi với thẩm phán ở nước ngoài. Họ cho biết, khi gặp khó khăn cũng trao đổi với đồng nghiệp chứ không phải hiểu độc lập theo nghĩa không cần tranh thủ trí tuệ người khác. Tuy nhiên, khi trao đổi có phương pháp và kỹ năng thích hợp để không tiết lộ nội dung vụ án.

Sau khi xét xử vụ án này, tôi còn viết một bài báo gửi báo Nông nghiệp Việt Nam. Sau khi báo đăng và gửi báo biếu tác giả, tờ báo biếu này theo đề nghị của Hiển tôi đã cho Đức Hiển, phóng viên báo Pháp luật TP.HCM, để viết chuyên đề về án tử hình. Vì bận việc không theo dõi nên không biết sau đó Hiển có viết chuyên đề này không. Hiện nay Đức Hiển đang là Phó Tổng biên tập báo Pháp Luật TP.HCM.

Tôi cũng từng là chủ tọa một vụ án khác nữa về thu nộp sản phẩm của nông dân với hợp tác xã nông nghiệp, sau khi xét xử tôi cũng có bài đăng báo Nông nghiệp Việt Nam, bài này tôi còn lưu giữ được sẽ in ở quyển sách sau.

Cuốn “Chuyện nghề phán xử” có độ dài gần 500 trang, gồm 9 chương:

Chương 1: Quê hương- gia đình và tuổi thơ

Chương 2: Chọn nghề hay nghề chọn

Chương 3: Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị

Chương 4: Tòa án nhân dân tỉnh Bình Trị Thiên

Chương 5: Tòa án nhân dân tối cao – một hành trình mới

Chương 6: Kỷ niệm với các Chánh án

Chương 7: Nghề tay trái

Chương 8: Nghỉ hưu làm gì

Chương 9: Tâm linh hay ngẫu nhiên

QUỲNH LINH

Nguồn PLO: https://plo.vn/trich-hoi-ky-chuyen-nghe-phan-xu-ban-bao-cao-ghi-kinh-gui-nhung-khong-gui-post853832.html